Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng hát giữa Rừng Thiền

30/09/201310:03(Xem: 13229)
Tiếng hát giữa Rừng Thiền

Thien_Vien_Thuong_Chieu


TIẾNG HÁT GIỮA RỪNG THIỀN

Thân tặng Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành, Đồng Nai

TỊNH MINH




Nhân chuyến tham quan của trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II năm 1990, chúng tôi được hân hạnh cùng trường viếng thăm Thiền viện Thường Chiếu, được Hòa thượng Viện chủ và các Thiền sinh đón tiếp rất nồng ấm, đặc biệt là các tiết mục văn nghệ “tương chao” với những lời ca điệu nhạc do các Thiền sinh tự biên tự diễn đã để lại trong chúng tôi nhiều ấn tượng đậm đà, thiền vị.

Mở đầu chương trình là hai bản đơn ca: “Chăn trâu I và chăn trâu II”. Nhịp ca trầm lắng, trang nghiêm, nói lên thái độ canh phòng nghiêm mật của các mục tử: không để trâu ăn phá lúa mạ, khoai bắp của người; bắt trâu ăn cỏ thuần túy và phải đi theo đường ngay lối thẳng. Phải chăng các Thiền sinh muốn nói đã là Sa môn thì cuộc đời tu hành cũng thế: Chăn trâu bằng roi thì chế tâm bằng giới, không để cho vọng tâm hiện khởi, lục căn buông lung, vì buông lung phóng dật thì phiền não nhiễm ô, nhiếp tâm chánh niệm thì đạo nghiệp tăng trưởng.

“Tinh cần là đường sanh,

Buông lung là ngõ tử,

Tinh cần thì bất tử,

Buông lung như thây ma!”

(PC. 21)

Ngộ được lẽ ấy nên Thế Tôn thường khuyên các thầy Tỳ kheo phải luôn luôn tỉnh giác và an trú trong chánh niệm.

“Tự thân luôn tỉnh giác,

Đệ tử Gô-ta-ma,

Bất luận ngày hay đêm,

Vui trong cảnh thiền na.”

(PC. 301)

Ta thấy chăn trâu vất vả nhưng hàng phục vọng tâm còn vất vả hơn. Vì sao? Vì tâm ý vô hình vô ảnh, lang thang cô độc, sanh diệt tương tục và chạy nhảy theo trần cảnh như hằng hà sa số lượng sóng trên mặt biển khơi “Nhứt ba tài động vạn ba tùy:

“Tâm tế vi, khó thấy,

Vun vút theo dục trần,

Người trí phòng hộ tâm,

Phòng tâm thì an lạc.”

(PC. 36)

Đúng vậy! Người nào hàng phục được vọng tâm, người ấy có được nhịp thở an lạc.

Sau đó là hợp ca: “Thiền đoàn lao động hành khúc”. Lời ca điệu nhạc duyên dáng, vui tươi và lẫm liệt hẳn lên, thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, tự lực tự cường theo truyền thống Bách Trượng Thiền sư:

“Một ngày không làm là một ngày không ăn,

Dắt trâu ra đồng vừa làm vừa chăn,

Theo chân người xưa quản gì gian khó,

Sống chết ta không màng miễn được là Tăng.”

Hùng tráng thay! Cao đẹp thay! Chính nhờ tinh thần tri túc, ý chí vượt khó và lý tưởng chăn trâu mà rừng hoang u tịch trở thành chùa tháp nguy nga, cây cỏ hoang vu biến thành hoa hương ngào ngạt. Đúng là:

“Giữa đống rác bẩn thỉu,

Vất bỏ bên đường hoang,

Hoa sen thơm ngào ngạt,

Đẹp lòng khách qua đàng.”

(PC. 58)

Có lẽ các Thiền sinh đang sống trọn vẹn với tinh thần “Nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu” nên rất tự tại trong lao động và an lạc trong thiền môn.

“Một ngày không làm là một ngày không ăn,

Có đâu chỉ ngồi mới thiệt là Tăng,

Trâu đen rồi đây sẽ thành trâu trắng,

Chẳng phí đi kiếp người mới thật là Tăng.”

Trâu đen rồi đây sẽ thành trâu trắng, vọng tâm điên đảo rồi đây sẽ thành cứu cánh Niết bàn. Nếu được thế thì thật là:

“Tỳ kheo tuy trẻ tuổi,

Chuyên tu pháp Phật Đà,

Như trăng thoát mây chắn,

Soi sáng trần gian ta.”

(PC. 382)

Lời ca được Ni chúng Viên Chiếu nối tiếp với hai bài hợp xướng: “Viên Xuân và Huơng khói Tào Khê” rất sinh động, thanh thoát; nội dung ca ngợi nếp sống thiền môn đạm bạc nhưng nồng thắm ân đức Tôn Sư và hương sắc mùa xuân. Ánh mắt của Hòa thượng hiệu trưởng và Hòa thượng Viện chủ hiện rõ nét hoan hỷ “niêm hoa vi tiếu”. Nhà thơ Tống Anh Nghị thì mát ruột đến nỗi đôi chân cứ nhịp theo lời hát để rồi ứng khẩu:

“Chẳng nhớ về đây được mấy lần,

Mỗi lần chỉ nhớ một thâm ân,

Thiền môn quyến luyến như thân quyến,

Dẫu chẳng còn xuân vẫn thấy xuân.”

Đã ngoài cái tuổi “cổ lai hy” nhưng nhà thơ vẫn thấy trong lòng rộn rã ánh xuân và đượm tình ân đức.

* * *

ht-thanh-tu

Ta thấy xưa nay giới luật nhà Phật không cho phép Tăng Ni vũ ca xướng hát hay cố ý đi xem nghe: “Bất ca vũ xướng kỵ cập cố vãng quan thính”, nhưng Hòa thượng Viện chủ Thiền viện Thường Chiếu lại cho phép các Thiền sinh thoải mái thể hiện sở đắc của mình qua lời ca tiếng nhạc. Đây là điểm rất mới trong cửa thiền. Phải chăng các Thiền sinh đã qua được các giai đoạn tìm trâu, thấy dấu, thấy trâu, được trâu, chăn trâu và giờ đây đang cưỡi trâu về nhà với tiếng sáo tiếng đàn hòa vang theo gió. Hy vọng rồi đây họ sẽ quên trâu, quên người, tự tại vô ngại: “Vào rừng không khua lá, vào nước không quậy sóng”, thõng tay vào chợ như vào cõi vô dư niết bàn. Thảo nào người xưa có câu:

“Nếu không là nghệ sĩ thì không là tu sĩ,

Nếu không là thi sĩ thì không là Thiền sư.”

Hy vọng rồi đây những khúc nhạc Thiền thắm tình đời đạo sẽ được chân thành hợp xướng trong các khóa lễ thiền môn.

(Đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ, mùa Vu Lan 1990)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2014(Xem: 6367)
Hôm nay chúng ta có một đề tài đột xuất, lý do là có một số thiền sinh muốn biết “trú xứ nào thích hợp để hành thiền”? Câu hỏi này rất hay. Đúng ra, đây phải là bài học đầu tiên cho tất cả những ai sơ cơ bước vào đời sống tu học nghiêm túc; nhưng do là tôi thường hay nói chuyện, giảng pháp, giảng thiền trước hội chúng đã từng tu tập - nên tôi quên bẵng là có những người đến tập thiền hôm nay còn rất mới mẻ.
14/12/2014(Xem: 7716)
Thiền làm gia tăng sự thông minh trên nhiều phương diện, từ việc Thiền làm cho hai bán cầu não hoạt động song phương góp phần tăng trí nhớ, đến việc giúp não bộ lớn hơn và cảm xúc thông minh được hoàn thiện. Thiền làm gia tăng chất xám và chất trắng của não bộ. Chất xám có nhiệm vụ gạn lọc tin tức... Chất trắng ảnh hưởng đến kỷ năng truyền đạt.
01/12/2014(Xem: 10140)
Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685–1768) là vị Tổ trung hưng thiền Lâm Tế tại Nhật Bản. Xa rời phương thức đánh hét cùng các ngôn ngữ siêu tuyệt, Ngài cố công diễn tả Thiền bằng ngôn ngữ dễ hiểu để tầng lớp bình dân có thể hiểu được. Khi hiểu được tức là tu được. Mọi người nhận được làn gió mới làm sống dậy niềm tin vào chính mình, đưa cuộc đời qua hết khổ ải. Muôn người nhớ ơn Ngài. Năng lực cứu bạt của một vị thiền sư không nằm ở chỗ khiến người ta kính ngưỡng tôn thờ mình, mà nằm ở chỗ làm cho người hết khổ. Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài. Đây là một tác phẩm công phu trong vườn Thiền Phật giáo, xin trân trọng giới thiệu.
29/11/2014(Xem: 7629)
Trên nguyên tắc những gì tốt đẹp sinh ra từ những gì không tốt đẹp. Quý vị hãy nhìn vào những cánh hoa sen thì sẽ rõ: chẳng phải là xinh đẹp và tươi mát hay sao! Những cánh hoa ấy mọc trong bùn đất dơ bẩn và hôi tanh, thế nhưng một khi đã vươn lên khỏi bùn thì hoa lại trở nên sạch sẽ và tinh khiết. Người ta có thể kết các cánh hoa ấy lại để làm vương miện cho một vị vua, bởi vì các cánh hoa ấy sẽ không còn quay lại với lớp bùn nhơ trước đây nữa (một người tu tập đạt được giải thoát sẽ không còn quay lại với thế giới luân hồi). Cánh hoa sen cũng là hình ảnh của một người hành thiền nghiêm chỉnh cố gắng và luyện tập kiên trì.
20/11/2014(Xem: 9966)
Tôi đã lớn lên cùng với những dòng Bát Nhã Tâm Kinh. Những lời sắc bất dị không đã nghe âm vang như tiếng mõ ban mai, như tiếng tim đập của những ngày vui và của những đêm buồn, như tiếng mưa rơi mái hiên trong những buổi chiều ngồi đọc thơ Nguyễn Du.
19/11/2014(Xem: 5329)
Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1715) và Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726) là hai vị thiền sư của thế kỷ XVII, nổi tiếng nhất, sống lâu nhất và để lại nhiều tác phẩm nhất, với số tác phẩm thuộc loại đồ sộ nhất của Phật giáo Việt Nam. Nghiên cứu những chỉ dạy của Thiền sư Hương Hải, sắp xếp chúng thành một trình tự dầu chưa hẳn đã hoàn chỉnh, chúng ta có thể nhận ra Thiền tông vào thế kỷ XVII của Việt Nam như thế nào, và rộng ra, con đường Thiền của Việt Nam như thế nào. Những chỉ dạy của ngài không phân thành từng đề mục, nhưng ở đây chúng ta cố tìm cho ra những điểm chính và đặt thành tiêu đề phù hợp với con đường Phật giáo nói chung, để hình dung ra một cách có hệ thống con đường Thiền cho những người tu học đời sau như chúng ta.
12/11/2014(Xem: 14548)
Tốt nghiệp đại học, đang làm giám đốc điều hành cho một công ty chuyên về máy tính với tiền lương lên đến vài trăm ngàn đô la một năm, thế nhưng, James Christopher, một thanh niên Pháp vẫn quyết định bỏ việc sang Việt Nam đi tu.
31/10/2014(Xem: 6311)
Thiền có vô số lợi ích, bài viết ngắn nầy chỉ giới thiệu vài sự diệu dụng của Thiền mà mỗi người nên biết, nếu muốn có một cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc hơn. Thiền góp phần chữa được nhiều thứ bệnh, nhất là các bệnh thuộc loại tim mạch và hệ thống hô hấp… Tại sao? Y giới, nhất là qua sự thí nghiệm của BS Herbert Benson, Đại học Harvard
26/10/2014(Xem: 8142)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt. Như quý vị muốn đi từ đây ra đằng kia thì đầu tiên phải mở mắt trước, thấy đường rồi mới đi, còn nếu cứ nhắm mắt mà đi thì chắc chắn sẽ bị té. Vì quý vị muốn ngồi thiền cho nên quý Thầy sẽ nói sơ qua lý do tại sao chúng ta ngồi thiền, ngồi như thế nào, có những sự chuẩn bị gì, rồi trong khi ngồi chúng ta phải dụng công như thế nào…. Khi quý vị nắm vững, hiểu rõ rồi thì khi ngồi sẽ có sự phấn chấn, có lòng thiết tha, từ đó sự tu hành sẽ dễ tiến bộ hơn. Cụ thể là trước tiên mình phải hiểu thiền là gì, sau đó ứng dụng tọa thiền mới có kết quả tốt.
29/09/2014(Xem: 6920)
Theo tích truyện Suvaṇṇakārattheravatthu ở trong bộ chú giải Dhammapadaṭṭhakathā có kể đại lược là: “Tôn giả Sāriputta có một tỳ-khưu đệ tử còn trẻ đến xin đề mục thiền định; thấy sức vóc trai tráng, khí huyết phương cương, ngài liền bảo, hãy niệm thân bất tịnh (asubha), cốt ý là để đối trị với dục vọng và tham ái. Vị tỳ-khưu trẻ vào rừng, suốt bốn tháng ròng rã chăm chuyên niệm 32 thể trược, thỉnh thoảng đến nghĩa địa để nhìn ngắm tử thi nhưng “tướng bất tịnh” vẫn không hiện ra. Chán nản, vị tỳ-khưu trẻ muốn hoàn tục.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567