Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[141 - 150]

13/02/201217:42(Xem: 6792)
[141 - 150]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

141. DẠY CON HỒI NÀO?

Long Đàm Sùng Tín vốn người Hồ nam, là đệ tử của Thiền sư Thiên Hoàng Đạo Ngộ.

Long Đàm lớn lên trong cảnh nghèo, bán bánh ngọt để sống. Thiên Hoàng cho Long Đàm ở trọ trong một cái am nhỏ kế chùa sư. Để tỏ lòng biết ơn, mỗi ngày Long Đàm đem mười cái bánh ngọt biếu Thiên Hoàng.

Mỗi lần như vậy, Thiên Hoàng đều cho trở lại Long Đàm một cái bánh và nói:

- Cái này từ con mà đến, chúc con sau này có nhiều cháu.

Lấy làm lạ, một hôm Long Đàm hỏi:

- Tại sao mỗi lần con biếu thầy bánh, thầy cũng cho lại con một cái?

Thiên Hoàng đáp:

- Con cho ta, ta lại cho con, có gì chẳng đúng?

Nghe câu này, Long Đàm tỉnh ngộ và quyết định gia nhập tăng già và theo Thiên Hoàng tu học. . .

Một hôm Long Đàm hỏi Thiên Hoàng:

- Con đã ở đây ba năm, tại sao hòa thượng chẳng dạy con điều gì?

Sư đáp:

- Từ ngày con ở đây, ta không dạy con điều gì sao?

Long Đàm hỏi:

- Hòa thượng dạy con hồi nào?

Sư nói:

- Khi con đưa trà thì ta nhận lấy. Khi con đem cơm đến thì ta ăn. Khi con lễ bái thì ta gật đầu. Có khi nào ta không dạy con đâu?

Trong lúc Long Đàm suy nghĩ, sư tiếp:

- Muốn thấy, cứ nhìn thẳng xuống là thấy ngay. Nếu nghĩ ngợi ắt hỏng.

Ngay đây, Long Đàm liền ngộ.

(Trí Tuệ Thiền Sư)

142. DÙNG HÀNG NGÀY NHƯNG CHẲNG BIẾT

Thiền sư Huyền Sa Sư Bị cùng ăn bánh với Vi giám quân. Vi giám quân hỏi:

- Cái gì chúng ta dùng hằng ngày nhưng chẳng biết?

Sư đưa cho Vi giám quân một cái bánh và nói:

- Hãy ăn một cái đi.

Vi giám quân ăn bánh xong, lặp lại câu hỏi. Sư nói:

- Ấy là dùng hằng ngày nhưng chẳng biết.

(Trí Tuệ Thiền Sư)

143. CHỈ TỆ BẰNG MỘT NỬA

Vào một ngày mùa đông lạnh giá, một samurai thất nghiệp đến Thiền sư Vinh Tây xin giúp đỡ:

- Con nghèo và bịnh, gia đình đang chết đói. Xin hòa thượng từ bi giúp đỡ chúng con.

Thiền sư Vinh Tây quen với nếp sống khổ hạnh và cũng nghèo tương tợ, không có gì để cho anh ta. Lúc ấy sư nhớ đến pho tượng Phật trên chánh điện. Sư đến gỡ lấy vòng hào quang của pho tượng, cho người chiến sĩ, và bảo:

- Hãy đem bán đi, nó sẽ giúp anh qua cơn cùng khốn.

Mặc dù kinh ngạc, anh ta nhận lấy và từ giã. Một người trong đám tăng chúng hoảng sợ hỏi:

- Hòa thượng làm gì vậy? Đây là việc làm phạm thánh.

- Phạm thánh! Ông không nghe hòa thượng Đan Hà đốt tượng Phật gỗ để sưởi ấm sao? Việc ta làm chỉ tệ bằng một nửa. Ta chỉ đem trái tim Phật đầy từ bi ra dùng mà thôi. Nếu chính Phật nghe được tình trạng khốn cùng của người chiến sĩ này, ngài sẽ cắt một trong tứ chi của mình cho anh ta!

(Trí Tuệ Thiền Sư)

144. AI TRÓI ÔNG

Thiền tăng Đạo Tín cầu xin Tam Tổ Tăng Xán:

- Xin hòa thượng từ bi rưới mưa pháp cho con được giải thoát.

Tổ hỏi:

- Ai trói ông?

Đạo Tín đáp:

- Chẳng ai trói cả.

Tổ nói:

- Thế tại sao ông muốn giải thoát?

Ngay câu này, Đạo Tín đại ngộ.

(Trí Tuệ Thiền Sư)

145. ĐÓI ĂN, MỆT NGỦ

Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền, Tổ khai sáng dòng Thiền Lâm Tế, có lần nói: “Khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ. Kẻ ngu cười ta, người trí hiểu ta.”

(Trí Tuệ Thiền Sư)

146. NGỘ RỒI ĐỒNG CHƯA NGỘ

Trưởng lão Định Hương, tịch năm 1051, là đệ tử xuất sắc nhất của Thiền sư Đa Bảo.

Một hôm sư hỏi thầy:

- Làm sao thấy được chơn tâm?

Đa Bảo đáp:

- Là ngươi tự nhọc.

Sư nói:

- Tất cả đều như vậy, đâu phải chỉ riêng con.

Đa Bảo hỏi:

- Ngươi hội chưa?

Sư đáp:

- Đệ tử hội rồi lại đồng chưa hội.

Đa Bảo nói:

- Cần phải giữ gìn cái ấy.

Sư bịt tai, xây lưng đứng.

Đa Bảo liền nạt:

- Đi!

Sư sụp xuống lạy.

Đa Bảo dạy:

- Về sau ngươi lại giống như một kẻ điếc để tiếp người.

(Thiền Sư Việt Nam)

147. HÃY VỀ NHÀ ĐÓNG CỬA LẠI

Một ông lão đến nhờ Thiền sư Đại An giúp đỡ. Ông ta đã từng là quan thị vệ của triều đình, nhưng nay đã về hưu. Con cái đã trưởng thành và lập gia đình. Gần đây vợ chết và ông lão tuyệt vọng cô đơn. Ông lão cảm thấy mình không còn chịu đựng được nữa và đến gặp Thiền sư với hy vọng cuối cùng. Thiền sư Đại An suy nghĩ có thể làm gì. Đề nghị ngồi thiền chẳng giúp được gì. Ngồi trong tư thế cứng đơ giữa mọi người thì ông lão đã làm cả đời. Ông ta đã ngồi đủ rồi. Bảo ông ta chiêm nghiệm thiên nhiên ư? Việc này có thể xoa dịu, nhưng ông ta là một ông lão có văn hóa, có thể làm vậy được sao? Chỉ ngồi nhà đọc thơ sẽ không thích hợp với tâm trạng ông ta và ông ta sẽ không thấy ngay điều ấy ư? Có thể làm gì cho ông ta?

Rồi sư đề nghị:

- Hãy về nhà đi. Đến lúc nào ông thực sự cảm thấy tuyệt vọng, hãy vào căn phòng kín nhất, đóng cửa lại, hoàn toàn một mình trong đó, không toan tính, không suy nghĩ đến ai, cái gì, tại sao, hãy lạy chín lạy. Chỉ khi nào ông thực sự tuyệt vọng, ông chỉ đơn giản nằm xuống, với niềm tin của trẻ thơ, không lý do, không mong mỏi điều gì. Và xem chuyện gì xảy ra.

Với đôi mắt nhòa lệ, ông lão cảm ơn và ra về. Vài tháng sau ông ta trở lại nói:

- Đời tôi đã thay đổi. Hòa thượng có nhận tôi làm đệ tử không?

Thiền sư Đại An nói:

- Hôm nay ông có vẻ an lạc. Có gì khác nữa không?

Ông ta đáp:

- Dạ không. Cảm ơn hoà thượng đã giúp đỡ. Mọi sự tốt đẹp.

Thiền sư Đại An hỏi:

- Thế tại sao không dùng nó đi?

(Trí Tuệ Thiền Sư)

148. ÔNG TĂNG THẤT BẠI

Ông tăng thất bại tên là Ichhi đã lao động cả đời trong nhà bếp của một ngôi chùa lớn bên hồ Hakkone. Chính ông cũng như những người bề trên đều coi ông như là một “ông tăng thất bại” bởi vì ông đã được trao cho công án “Tiếng vỗ của một bàn tay là gì” ngay từ những ngày đầu tiên ông mới vào hội chúng và ông không bao giờ giải đáp được. Đến nay ông đã thất bại năm mươi năm và đời ông đã gần chấm dứt.

Nhưng khi ông đang nằm hấp hối thì bỗng nhiên nhận ra rằng trong tâm ông đã ấp ủ một trạng thái đại bình an. Nỗ lực vì ngộ đã biến mất, tiếng kêu thét từ đan điền không còn nữa, và công án ám ảnh cũng biến mất, bởi vì ông đã tìm được sư yên tĩnh, vì không còn phải cố gắng nữa, trong niềm im lặng thanh nhã, một mình trên rầm thượng, trong u tối êm ái cuối đời.

Chỉ lúc ấy, khi chẳng còn câu hỏi, chẳng cần câu trả lời (ngay cả hơi thở cũng chẳng cần) cuối cùng Ichhi đã nghe được niềm im lặng rì rào của tiếng vỗ một bàn tay.

(Ngụ Ngôn Thiền)

149. HÃY XEM CON ONG

Jato là gia sư của các hoàng tử Nhật, quan sát thấy cậu hoàng tử lớn tuổi nhất hay nổi cơn giận dữ, e rằng sẽ gặp nguy hiểm về sau vì vị thái tử này sẽ là người thừa kế ngai vàng và binh mã cuả vua cha. Một hôm, khi cậu bé giữa cơn cuồng nộ không kìm chế được, Jato lôi cậu đến một bụi hoa, dí tay cậu vào bầy ong đang hút mật cho đến khi một con ong chích vào tay cậu.

Cậu hoàng tử ngạc nhiên thấy rằng có người đối xử với cậu ta thô bạo đến nỗi cậu ta phải ngừng cơn giận dữ. Thái tử quơ quơ bàn tay bị ong chích và hét Jato:

- Bổn thái tử sẽ tâu với phụ hoàng.

- Khi thái tử tâu với hoàng thượng, nhớ nói điều này...

- Điều gì?

- Hãy xem con ong kìa.

Họ cùng nhau khảo sát con ong đang vặn vẹo mình mẩy trên chiếc lá, bộ ruột lòi ra cùng với cái vòi chích. Họ nhìn con vật đau đớn cho đến chết. Jato nói:

- Đấy là cái giá của giận dữ.

Tối hôm đó cậu thái tử nói với vua cha. Nhà vua ban cho Jato một thỏi vàng. Cậu bé, khi đã trở thành hoàng đế, được biết đến vì sự phán quyết trầm tĩnh và không muốn bị kích động giận dữ. Điểm đặc biệt này tỏ ra có giá trị vô cùng trong thời gian trị vì lâu dài của vị vua này qua các thời kỳ nhiễu loạn.

(Ngụ Ngôn Thiền)

150. NGỘ KHÔNG PHẢI LÀ MẶT TRỜI...

Một đêm khuya nọ, một Thiền sư và một trong những đệ tử giỏi nhất của sư đang trên con đường quanh co khúc khuỷu trở về ngôi chùa trên núi thì một cơn bão mùa đông dữ dội chụp lên họ. Dừng lại có nghĩa giáp mặt với tử vong, tiếp tục đi có nghĩa là thần chết dẫn đường từ vách đá trơn trượt.

Phương pháp tìm đường duy nhất là nhờ các ánh chớp lóe lên chiếu sáng đoạn đường mòn trước mặt. Hai người bò tới một cách chậm chạp, giữa những cơn gió báo tử và trận mưa như dao cắt. Khi sợ bị lạc đường, họ chờ ánh chớp lóe lên và nhớ thuộc lòng đoạn đường phía trước với hình ảnh lưu lại qua đôi mắt. Cuối cùng họ về đến chùa. Trong khi hơ khô và ăn trễ bữa cơm chiều trong nhà bếp, người đệ tử thú nhận rằng điều anh ta sợ nhất là nếu anh ta chết mà chưa ngộ.

Còn ông thầy thì thú thực rằng ngộ chẳng phải là mặt trời chiếu sáng cả ngày mà là tia chớp cho ta cái thoáng thấy nhanh chóng -- cho phép ta di chuyển từ phiền phức này đến phiền phức khác.

“Có thực không, Thầy?” người đệ tử hỏi.

“Đó là sự thực đối với đa số chúng ta,” ông thầy thì thầm.

(Ngụ Ngôn Thiền)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 3811)
Tất cả chúng ta đều đồng ý là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy. Vậy sự gặp gỡ nhau như thế nào? Đây là mục tiêu chúng ta phải nghiên cứu. Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như dưới đây:
08/01/2011(Xem: 3898)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8505)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11716)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12743)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12761)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4706)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4836)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5039)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567