Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[71 - 80]

13/02/201217:42(Xem: 6958)
[71 - 80]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

71. CỬA THIÊN ĐÀNG

Một người lính tên là Nobushige đến hỏi Thiền dư Bạch Ẩn: “Thiên đàng và địa ngục có thực chăng?”

Bạch Ẩn hỏi lại: “Anh là ai?”

Chiến sĩ đáp: “Tôi là một samurai.”

“Anh mà là chiến sĩ! Quan chúa nào thuê anh làm thị vệ? Mặt anh trông giống kẻ ăn mày.”

Nobushighe nổi giận và bắt đầu rút kiếm, nhưng Bạch Ẩn vẫn nói tiếp: “Hóa ra anh cũng có kiếm đấy! Có lẽ kiếm anh quá cùn không thể chém đầu tôi được.”

Ngay khi Nobushige rút kiếm khỏi vỏ, Bạch Ẩn nói: “Cửa địa ngục mở ra ở đây!”

Nhân đó người chiến sĩ nhận thức được lời thầy dạy, đút kiếm vào vỏ và lễ bái.

Bạch Ẩn nói: “Cửa thiên đàng mở ra ở đây.”

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

72. BẮT ÔNG PHẬT ĐÁ

Một thương nhân vác năm chục cuộn vải, vì trời nóng, dừng lại nghỉ dưới bóng mát của một tượng Phật lớn bằng đá. Anh ta chợt ngủ quên ở đó. Khi tỉnh dậy hàng hóa biến mất. Anh ta lập tức báo cáo với cảnh sát.

Một quan tòa tên là O-oka mở một phiền tòa để điều tra. “Rằng ông Phật đá phải là kẻ ăn cắp hàng hóa,” quan tòa kết luận. ‘Ông ta được đặt ra là để chăm sóc phúc lợi của dân, nhưng lại không làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng. Hãy bắt ông ta.”

Cảnh sát bắt ông Phật đá mang đến tòa. Một đám đông ồn ào đi theo pho tượng, tò mò muốn biết quan tòa phán quyết như thế nào.

Khi O-oka xuất hiện trên công đường liền trách cử tọa to tiếng ồn ào.

“Các người có quyền gì xuất hiện trước tòa cười đùa như thế này? Các người đã khinh tòa nên phải nộp phạt và ở tù.”

Dân chúng vội vàng xin lỗi. Quan tòa nói: “Tôi phải phạt các người, nhưng tôi sẽ miễn cho nếu trong vòng ba ngày mỗi người mang đến cho tòa một cuộn vải. Ai không tuân hành sẽ bị bắt.”

Một trong những cuộn vải người ta mang đến được thương nhân nhận ra ngay là của mình, và tên cắp bị khám phá một cách dễ dàng. Thương nhân nhận lại hàng hóa của mình, phần kia được trả lại cho dân.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

73. NHỮNG NGƯỜI LÍNH CỦA LÒNG NHÂN TỪ

Một hôm một sư đoàn quân Nhật tập trận giả. Một số sĩ quan thấy cần phải đặt tổng hành dinh của họ trong ngôi chùa của Nga Sơn.

Nga Sơn bảo người nấu ăn: “Hãy cho các sĩ quan đó ăn những món đơn giản như chúng ta.”

Điều này làm cho các quân nhân đó tức giận, vì họ thường được biệt đãi. Một người đến nói với Nga Sơn: “Thầy nghĩ chúng tôi là ai? Chúng tôi là những người lính, hy sinh tánh mạng cho quốc gia. Tại sao thầy không đối xử chúng tôi cho hợp cách?”

Nga Sơn nghiêm nghị trả lời: “Anh nghĩ chúng tôi là ai? Chúng tôi là những người lính của lòng nhân từ, mục đích là độ tất cả chúng sinh.”

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

74. CON ĐƯỜNG HẦM

Zenkai là con trai của một samurai, du hành đến Edo và trở thành kẻ hộ vệ cho một viên chức cao cấp ở đó. Anh ta bỗng yêu người vợ của viên chức đó và bị khám phá. Để tự vệ, anh ta giết viên chức rồi cùng với người vợ kia đào tẩu.

Về sau cả hai trở thành những tên ăn cắp. Nhưng người đàn bà quá tham lam đến nỗi khiến Zenkai ghê tởm. Cuối cùng anh ta bỏ người đàn bà đó, đi đến tỉnh Buzen xa xôi, nơi đây anh ta trở thành một kẻ ăn mày lang thang.

Để chuộc phần nào tội lỗi trong qúa khứ, Zenkai quyết tâm làm một việc thiện trong đời mình. Biết có một đoạn đường nguy hiểm đi qua dốc đá đã gây thương tích và làm chết nhiều người, Zenkai quyết định đào một con đường hầm thông qua vùng núi đó.

Ban ngày Zenkai đi xin ăn, ban đêm đào núi. Ba mươi năm trôi qua, con đường hầm dài 695 mét, cao 6 mét và rộng 9 mét.

Hai năm trước khi việc làm hoàn tất, thì người con trai của viên chức bị giết, là một kiếm sĩ tài ba, tìm ra Zenkai và đến giết để trả thù cha.

Zenkai nói: “Tôi sẽ tự nguyện dâng mạng sống này cho anh, nhưng hãy để tôi làm xong việc này đã. Đến ngày tôi đào xong, anh có thể giết tôi.”

Vì thế người thanh niên chờ cái ngày đó. Nhiều tháng trôi qua, Zenkai tiếp tục đào. Người thanh niên trở nên chán nản vì không có gì để làm và anh ta bắt đầu giúp Zenkai đào đường. Sau khi giúp hơn một năm, anh ta ngưỡng mộ ý chí kiên cường và cá tánh mãnh liệt của Zenkai.

Cuối cùng con đường hầm đã xong, người ta có thể sử dụng và qua lại an toàn.

“Việc của tôi đã xong, bây giờ hãy chém đầu tôi đi,” Zenkai nói.

“Làm sao con có thể chém đầu thầy được, người thanh niên nói qua làn nước mắt.”

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

75. NGU ĐƯỜNG VÀ HOÀNG ĐẾ

Nhật hoàng Goyozei học Thiền với Thiền sư Ngu Đường. Thiên hoàng hỏi: “Thiền nói chính tâm này là Phật, có phải không?”

Ngu Đường đáp: “Nếu tôi nói phải, hoàng thượng sẽ nghĩ rằng mình hiểu mà không hiểu. Nếu tôi nói không, tôi sẽ mâu thuẫn với một sự kiện mà nhiều người hiểu rất rõ.”

Hôm khác hoàng đế lại hỏi: “Người ngộ đạo sẽ đi đâu khi chết?”

Ngu Đường đáp: “Tôi không biết.”

Hoàng đế hỏi: “Tại sao thầy không biết?”

Ngu Đường đáp: “Bởi vì tôi chưa chết.”

Hoàng đế do dự muốn hỏi thêm vễ những điều tâm chưa nắm được. Vì vậy Ngu Đường lấy tay đập xuống sàn nhà như để đánh thức hoàng đế, và hoàng đế giác ngộ!

Sau khi giác ngộ, hoàng đế càng kính trọng Thiền và lão sư Ngu Đường hơn, còn cho phép Ngu Đường được đội mũ trong hoàng cung vào mùa đông. Khi Ngu Đường hơn tám mươi tuổi, thường hay ngủ gục trong khi thuyết pháp, và hoàng đế lặng lẽ lui sang phòng khác để vị lão sư có thể hưởng được những gì còn lại mà tấm thân đòi hỏi.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

76. SINH TỪ ĐÂU ĐẾN, CHẾT ĐI VỀ ĐÂU?

Thiền sư Trí Bảo, đời thứ 10 dòng Vô Ngôn Thông, khi chưa đắc đạo chợt gặp một Thiền tăng. Thiền tăng thấy sư liền hỏi:

- Sinh từ đâu đến, chết đi về đâu?

Sư suy nghĩ, vị tăng ấy bảo:

- Khi ông suy nghĩ, mây trắng bay ngàn dặm.

Sư không đáp được. Vị tăng ấy quát:

- Chùa tốt mà không có Phật.

Nói xong bèn bỏ đi. Sư tự than rằng:

- Ta tuy có tâm xuất gia, nhưng chưa được yếu chỉ của người xuất gia... Từ đây, sư dạo khắp bốn phương tìm bậc thiện tri thức tham hỏi. Khi đến tham kiến Thiền sư Đạo Huệ ở Tiên Du, lại đem câu hỏi của vị tăng trên ra hỏi. Đạo Huệ bảo:

- Sanh không từ đâu đến, chết không đi về đâu.

Sư hỏi:

- Thế ấy, đâu chẳng rơi vào chỗ không sao?

Đạo Huệ bảo:

- Chân tánh diệu viên, thể tự không tịch, vận dụng tự tại, chẳng đồng với sanh tử. Thế nên, sinh không từ đâu đến, chết không đi về đâu.

Ngay câu nói này, sư liền lãnh ngộ, nói:

Chẳng nhờ gió cuốn mây trôi hết,

Đâu thấy trời trong muôn dặm thu.

Đạo Huệ hỏi:

- Ông thấy cái gì?

Sư đáp:

- Biết nhau khắp thiên hạ, tri âm có mấy người.

Sư bèn từ tạ trở về núi.

(Thiền Sư Việt Nam)

77. TRONG BÀN TAY ĐỊNH MỆNH

Một đại chiến sĩ Nhật tên là Nobunaga quyết định tấn công kẻ thù mặc dù ông chỉ có một phần mười số người mà cuộc đối địch đòi hỏi. Ông biết mình sẽ thắng nhưng lính của ông thì nghi ngờ.

Trên đường di chuyển, ông dừng lại ở một ngôi đền Thần Đạo và bảo binh sĩ: “Sau khi viếng thánh điện, tôi sẽ tung một đồng xu đoán quẻ. Nếu mặt có đầu giơ lên, chúng ta sẽ thắng; nếu mặt có đuôi giơ lên, chúng ta sẽ thua. Chúng ta nằm trong bàn tay của định mệnh.”

Nobunaga vào thánh điện, im lặng khấn nguyện. Ông bước tới tung đồng xu lên. Mặt có đầu hiện lên. Các chiến sĩ hăng say chiến đấu đến nỗi họ thắng trận dễ dàng.

“Không ai thay đổi được bàn tay định mệnh,” người cận vệ nói với ông sau cuộc chiến.

“Sự thực không phải vậy,” Nobunaga nói và giơ đồng xu, thực ra là do hai đồng ghép lại, nên hai mặt đều có đầu.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

78. SÁT SINH

Một hôm Nga Sơn dạy chúng: Những người phản đối việc sát sinh cũng như những người muốn bảo vệ mạng sống của tất cả chúng sinh đều đúng.

Bảo vệ cả thú vật và côn trùng cũng tốt. Còn những người giết thì giờ thì sao, những kẻ phá hoại của cải, những kẻ tàn phá kinh tế chính trị thì thế nào? Chúng ta sẽ không bỏ qua họ. Hơn nữa, còn kẻ rao giảng không có ngộ thì thế nào? Y đang giết chết Phật giáo đó.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

79. MỒ HÔI KASAN

Sư Kasan được thỉnh cử hành tang lễ cho một lãnh chúa trong tỉnh.

Trước đây sư chưa bao giờ gặp các lãnh chúa và các nhà quí tộc nên sư hồi hộp. Khi nghi lễ bắt đầu, sư toát mồ hôi.

Sau đó, khi trở về chùa, Kasan tập trung đồ chúng và thú nhận rằng mình chưa đủ tư cách làm thầy vì khi ở trong thế giới danh vọng sư thiếu phong cách giống như sư có nơi chùa chiền ẩn dật. Rồi Kasan từ chức và trở thành đệ tử của một sư khác. Tám năm sau, sư trở lại với các đệ tử cũ, khi đã ngộ.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

80. HÀNG PHỤC MA

Một cô vợ trẻ bị bệnh sắp chết. Cô nói với chồng: “Em yêu anh lắm. Em không muốn xa anh. Đừng có bỏ em mà đến với người đàn bà nào khác. Nếu anh như vậy, em sẽ làm ma trở về quấy rầy anh mãi.”

Chẳng bao lâu cô vợ qua đời. Người chồng tôn trọng ước muốn cuối cùng của vợ được ba tháng, nhưng rồi anh ta gặp một người đàn bà khác và phải lòng cô ta. Họ đính hôn và sẽ cưới nhau.

Ngay sau khi đính hôn, hằng đêm một con ma xuất hiện trước mặt anh chồng, trách anh ta không giữ lời hứa. Con ma rất tinh khôn. Nó kể đúng y những gì đã tiết lộ giữa anh chồng và người yêu mới. Bất cứ khi nào anh ta tặng vị hôn thê món quà gì con ma cũng miêu tả được từng chi tiết. Nó còn lặp lại được những cuộc nói chuyện nữa, khiến anh chồng phiền não đến độ không thể ngủ được. Có người biết chuyện khuyên anh chồng đem vấn đề đến vị Thiền sư ở gần làng nhờ giúp đỡ. Cuối cùng, trong tuyệt vọng, người đàn ông khốn khổ đã đến nhờ Thiền sư.

Thiền sư bình luận: “Người vợ trước của anh đã thành ma. Anh làm hay nói gì, nó đều biết cả. Nó phải là một con ma rất khôn ngoan. Thật sự anh nên kính trọng một con ma như thế. Lần tới khi nó xuất hiện, hãy đánh cuộc với nó. Hãy bảo nó rằng nó biết nhiều quá, anh không thể dấu nó cái gì hết, và nếu nó có thể trả lời được một câu hỏi, anh hứa sẽ từ hôn và tiếp tục sống độc thân.”

Người đàn ông hỏi: “Tôi phải hỏi cô ta câu gì?”

Thiền sư đáp: “Hãy hốt một nắm đầy đậu nành và bảo cô ta hãy nói đúng có bao nhiêu hạt đậu trong tay anh. Nếu cô ta không nói được thì anh biết đó chỉ là hình ảnh trong trí tưởng tượng của anh thôi và nó sẽ không còn làm phiền anh nữa.”

Đêm hôm sau khi con ma xuất hiện người đàn ông tán tỉnh nó, bảo rằng nó biết hết mọi thứ.

Con ma đáp: “Đúng vậy. Em còn biết hôm nay anh đã đi gặp ông Thiền sư đó.”

Người đàn ông yêu cầu: “Vì em biết rất nhiều, bây giờ hãy nói anh nghe có bao nhiêu hạt đậu trong bàn tay này!”

Chẳng còn ma nào nữa để trả lời câu hỏi.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2014(Xem: 9797)
Cụ bà Phúc Thái sinh năm 1923 tại Thái Bình, di cư vào nam 1935, lập gia đình và có 7 người con, hiện cụ có 16 người cháu và 6 chắc. Hiện cụ đã 91 tuổi đang tịnh dưỡng thiền tập và sống khỏe tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ
03/09/2014(Xem: 7657)
Đạo Tràng Từ Nghiêm tại Krefeld quy tụ gần 30 Nam Nữ Phật Tử đã về Tu Viện Viên Đức vùng Ravensburg(Đức Quốc) để tu học Thiền Vipassana qua sự hướng dẫn của Thượng Tọa Thiền Sư Walpola đến từ Tích Lan cũng như Thượng Tọa Anurudha(người Tích Lan đến từ Thụy Sĩ). Qúy Ngài dùng tiếng Anh và tiếng Đức để giảng pháp. Kinh tụng hằng ngày bằng tiếng Pali được dịch sang Việt Ngữ.
02/09/2014(Xem: 10378)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
14/08/2014(Xem: 9220)
Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) đã từ chức vào năm 2007, và chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do khi chưa làm được một năm, sau thất bại thảm hại của đảng này khi bầu cử Thượng viện. 12 tháng 9 năm 2007 : Nhiệm kỳ của ông lại bị phá hỏng vì hàng loạt cuộc từ chức của các Bộ trưởng Nội các và vụ tiết lộ về việc để mất số liệu lương hưu. Ông từ chức sau một năm tại nhiệm với lý do sức khỏe. Bảy tháng sau, Thủ tướng Abe Shinzō (An Bội Tấn Tam-安倍 晋三) bị bệnh hay quên lãng và đã thử thách mình bằng cách dùng phương pháp trị liệu "Tọa thiền" ngồi thiền tại Chùa Zenshōan (臨済宗國泰寺)một ngôi chùa thuộc Thiền phái Lâm Tế ở huyện Yanaka, Tokyo.
19/07/2014(Xem: 5884)
Bài “Thiền trị được bệnh, tại sao?” (4.4.2011) tôi trình bày một trong những vấn đề tổng quát là Thiền có khả năng chống lại sự thoái hóa của telomeres. Điều nầy ảnh hưởng đến tuổi thọ và bệnh tật của chúng ta. Khoa học gia tìm thấy, Thiền có khả năng cải thiện telomeres làm cho con người trẻ ra, già chậm và ngăn ngừa được nhiều bệnh tật. Tìm hiểu vai trò của telomeres đối với sự lão hóa và bệnh tật, chúng ta sẽ có một đời sống thọ hơn, khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc hơn. Bà Elizabeth Blackburn được giải Nobel về y học do ba đã tìm ra sự liên hệ giữa telomeres và tuổi thọ. Tại Đại học San Francisco, bang California, một nhóm chuyên gia do bà hướng dẫn, thí nghiệm xem phải chăng Thiền có thể chống lão hóa và tăng tuổi thọ (slow aging and lengthen life) mà truyền thống Đông phương thường nói đến. Lúc làm việc với hóa học gia Joe Gall tại Đại học Yale vào các năm 1970, bà Blackburn thường nối các đầu nhiễm sắc thể của sinh vật đơn bào mà bà đặt tên là tế bào của sinh vật sống trong
18/07/2014(Xem: 5844)
* Giác ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng can dự gì đến khối lớn cộng đồng; điểm tựa của nó được đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…) Cái được gọi là “thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm lợi ích cho tất cả thế gian. Nếu không thể phụng sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc mà mình đứng trong đó – nghĩa là, nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức”của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt, và chẳng có cái lối chứa nhóm nào như vậy mà lại có thể làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề tâm). (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
17/07/2014(Xem: 6856)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu. Người ta tạm định nghĩa, “ngôn ngữ chỉ là một công cụ” dùng để biểu đạt ý nghĩ, trạng thái tâm sinh lý để người khác nhận biết, thấu hiểu, cảm thông. Có nhiều dạng ngôn ngữ, ta có thể tạm chia ra làm hai, ngôn ngữ xuất phát ở bên trong (nội tính) và ngôn ngữ thể hiện ở bên ngoài (ngoại tính). Cho dù phát xuất từ đâu, một khi xử dụng nếu ta không có trí tuệ, chân thật, ái ngữ, lợi hành, lợi người, thì không khéo sự biểu đạt ấy, đôi khi lại là mầm mống, nguyên nhân của những hiểu lầm, ngộ nhận, xích mích, đáng tiếc khác.
24/05/2014(Xem: 12060)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đề mà giác ngộ thành Phật. Cho nên, mục đích tối hậu của thiền Phật Giáo là thành Phật, là giác ngộ chân tánh. Vì vậy, Thiền Tông chỉ nói đến “kiến tánh thành Phật,” không nói gì khác.
21/05/2014(Xem: 6621)
Mục tiêu của thiền dĩ nhiên là để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng đó không phải là nơi an trụ cuối cùng. Thiền bao gồm Phật giáo và là sự thực hành Phật đạo. Thế thì Phật giáo là gì? Và Phật đạo là gì ? Nhiều người cho rằng Phật giáo chỉ là những chuyện về thiên đường, địa ngục, và làm sao để tẩn liệm một xác chết, hoặc có thể là một ông già nào đó nói về sự xả ly.
21/05/2014(Xem: 6736)
Nhiều người gặp tôi trong bệnh viện thường hỏi tôi Thiền là gì. Tôi giải thích với họ Thiền chú ý về một đối tượng đặc biệt nào đó nhằm một mục tiêu đặc biệt. Những người thực tập tâm linh trong các truyền thống khác nhau trong nhiều quốc gia đã sánh tạo ra nhiều cách thực hành thiền khác trong nhiều thế kỷ. Có thể nói có hàng trăm cách thực hành thiền khác nhau và mục đích của Thiền là ‘thức tỉnh’, giúp chúng ta chuyển hóa và thay đổi, nhờ hiểu biết, lòng từ bi và đạt được cái nhìn đúng (chính kiến).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567