Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[41 - 50]

13/02/201217:42(Xem: 7454)
[41 - 50]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt

 

41. CUỘC ĐỐI THOẠI MẶC CẢ CHỖ Ở

Hễ là tham dự và thắng cuộc tranh luận về Phật giáo với những người đang ở trong một ngôi chùa Thiền thì bất cứ một vị tăng hành cước nào cũng có thể ở lại ngôi chùa đó. Nếu bị bại thì phải dọn đi chỗ khác.

Trong một ngôi chùa ở miền bắc nước Nhật có hai tăng nhân sư huynh sư đệ đang ở với nhau. Sư huynh thì có học còn sư đệ thì ngu và chột mắt.

Một ông tăng hành cước đến và yêu cầu một chỗ trú, đúng ra là thách hai sư huynh đệ kia tranh luận về giáo lý tối thượng. Người sư huynh mệt vì hôm đó học nhiều, bảo sư đệ thay mình. “Hãy đi yêu cầu một cuộc đối thoại im lặng,” người sư huynh ra vẻ thận trọng.

Vì vậy người sư đệ và ông tăng lạ mặt vào ngồi trước bàn thờ trong chánh điện.

Chẳng bao lâu sau đó, ông tăng hành cước đứng lên và đến nói với người sư huynh: “Sư đệ của ngài thật là một người kỳ diệu. Anh ta đã đánh bại tôi.”

Người sư huynh nói: “Xin kể tôi nghe cuộc đối thoại.”

Ông tăng hành cước giải thích: “Trước hết tôi giơ lên một ngón tay, tượng trưng cho đức Phật, đấng giác ngộ. Vì vậy sư đệ của ngài giơ lên hai ngón tay, tượng trưng cho đức Phật và giáo lý của người. Tôi liền giơ lên ba ngón tay, tượng trưng cho đức Phật, giáo lý và những người theo Phật, sống cuộc sống hòa hợp. Lúc ấy sư đệ của ngài giơ nắm tay siết chặt vào mặt tôi, ý chỉ rằng cả ba đều phát xuất từ giác ngộ. Như thế anh ta đã thắng và tôi không có quyền ở lại đây.” Nói xong, ông tăng hành cước bỏ đi.

“Cái gã ấy đâu rồi,” người sư đệ hỏi, chạy đâm sầm vào người sư huynh.

“Tôi hiểu sư đệ đã thắng cuộc tranh luận.”

“Thắng cái con khỉ. Em sẽ đánh hắn nhừ tử.”

“Hãy nói tôi nghe đề tài cuộc tranh luận,” người sư huynh bảo.

Tại sao, ngay lúc vừa thấy em, hắn liền giơ lên một ngón tay, lăng nhục em bằng cách ám chỉ rằng em chỉ có một mắt. Vì hắn là khách lạ, em nghĩ mình nên lịch sự, vì vậy em giơ hai ngón tay, chúc mừng hắn có hai con mắt. Rồi tên khốn nạn bất lịch sự ấy giơ lên ba ngón tay, ý muốn nói rằng giữa hai chúng ta chỉ có ba con mắt. Vì vậy em nổi điên lên và bắt đầu đấm hắn, nhưng hắn bỏ chạy và chuyện chấm dứt.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

42. GIỌNG NÓI CỦA HẠNH PHÚC

Sau khi Thiền sư Bàn Khuê qua đời, một người mù sống bên cạnh chùa sư nói với một người bạn: “Bởi vì mù, không thể nhìn thấy mặt người ta, nên tôi phải phán đoán tính tình con người qua giọng nói. Thông thường khi tôi nghe một người chúc mừng hạnh phúc hay thành công của ngườI khác, tôi cũng nghe cả cái giọng bí mật ganh tị. Khi nói lời chia buồn vì sự bất hạnh của người khác, tôi cũng nghe cả sự khoan khoái và thỏa mãn, tựa hồ người chia buồn thực sự vui mừng vì có một cái gì đó còn lại để chiếm lấy trong thế giới riêng tư của y. Tuy nhiên, trong tất cả kinh nghiệm của tôi, giọng nói của Thiền sư Bàn Khuê luôn luôn chân thành. Khi nào sư biểu lộ hạnh phúc, tôi nghe chỉ có hạnh phúc, khi nào sư tỏ ra phiền muộn, tôi nghe toàn là phiền muộn.”

(Thiền Cốt Thiền Nhục)


43. KHÔNG NƯỚC, KHÔNG TRĂNG

Ni cô Chiyono học Thiền dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Phật Quang (Bukko) ở chùa Viên Giác (Engaku) trong một thời gian khá lâu nhưng cô không đạt được kết quả của thiền định.

Cuối cùng vào một đêm trăng sáng, khi cô đang xách nước bằng một cái vò cũ có bọc nan tre. Bao nan gãy, đáy vò rơi xuống, và ngay giây phút đó Chiyono được giải thoát!

Để kỷ niệm, cô viết bài kệ sau đây:
Chiếc vò cũ, bọc nan tre đã yếu

Và sắp hư, ta cố cứu nhiều lần,

Nhưng chẳng được và đáy vò rơi xuống,

Nước không còn, trăng cũng mất tiêu luôn.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

44. DANH THIẾP

Khiết Xung (Keichu), Thiền sư vĩ đại thời Minh Trị, là trụ trì chùa Đông Phước (Tofoku), một tổ đình ở Kyoto. Một hôm quan Tổng đốc Kyoto lần đầu đến viếng sư.

Ông tăng thị giả trình sư tấm danh thiếp của quan Tổng đốc, viết:

Kitagaki, Tổng đốc Kyoto.

Tôi không có chuyện gì với một kẻ như thế, sư nói với ông tăng thị giả, “Hãy bảo ông ta ra khỏi nơi đây.”

Ông tăng thị giả mang tấm thiệp trả lại với lời xin lỗi. “Đó là lỗi của tôi,” quan Tổng đốc nói, và với cây bút chì trong tay ông xoá các chữ Tổng đốc Kyoto. “Hãy hỏi lại thầy chú.”

“Ồ, Kitagaki đấy hả?” sư kêu lên khi thấy tấm thiệp. “Tôi muốn gặp người ấy.”

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

45. MIẾNG NÀO CŨNG NGON NHẤT

Khi Bàn Sơn (Banzan) đi ngang qua một khu chợ, sư nghe xa xa cuộc nói chuyện giữa người bán thịt và một khách hàng.

“Anh lựa cho tôi miếng thịt ngon nhất nhé,” cô khách mua thịt nói.

“Miếng nào trong tiệm tôi cũng ngon nhất,” anh bán thịt trả lời. “Ở đây cô không thể tìm ra miếng nào không ngon nhất.”

Nghe những lời ấy, Bàn Sơn tỉnh ngộ.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

46. BÀN TAY CỦA MẶC TIÊN

Thiền sư Mặc Tiên (Mokusen) sống trong một ngôi chùa ở tỉnh Tamba. Một trong những đệ tử của sư phàn nàn về tính hà tiện của bà vợ.

Mặc Tiên đến viếng vợ của người đệ tử. Sư đưa nắm tay siết chặt ra trước mặt bà ta.

Người đàn bà ngạc nhiên hỏi: “Thầy muốn nói gì vậy?”

Sư nói: “Giả sử bàn tay tôi luôn luôn như thế này, chị gọi nó là cái gì?”

Người đàn bà đáp: “Dị dạng.”

Rồi sư xoè bàn tay ra để ngay trước mặt người đàn bà và hỏi: “Giả sử nó luôn luôn thế này, thì thế nào?”

Người đàn bà đáp: “Dị dạng.”

Mặc Tiên kết thúc: “Nếu chị hiểu được như vậy, chị là người vợ hiền.” Rồi sư bỏ đi.

Sau cuộc viếng thăm của sư, chị vợ giúp chồng chi tiêu cũng như dành dụm.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

47. NỤ CƯỜI TRONG ĐỜI

Người ta không bao giờ thấy Mokugen mỉm cười cho đến ngày cuối cùng của sư trên trái đất. Khi sắp qua đời, sư nói với các đệ tử trung thành: Các anh đã học với tôi hơn mười năm. Hãy trình kiến giải của các anh về Thiền cho tôi xem. Ai nói rõ nhất sẽ là người thừa kế và nhận y bát của tôi.

Mọi người đều nhìn mặt Mokugen nhưng không ai trả lời.

Encho, một đệ tử đã ở với thầy một thời gian lâu, bước đến bên cạnh giường. Anh ta đẩy chén thuốc tới mấy phân. Đây là câu trả lời đòi hỏi.

Vẻ mặt của ông thầy trở nên nghiêm trọng hơn. “Anh hiểu chỉ có chỉ có thế à?” sư hỏi.

Encho vươn tới kéo chén thuốc trở lại.

Một nụ cười đẹp rạng rỡ trên khuôn mặt Mokugen. Sư bảo Encho, “Tên vô loại, ngươi học với ta mười năm mà chưa thấy toàn thân ta. Hãy lấy y bát đi. Chúng thuộc về ngươi đó.”

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

48. MỌI PHÚT THIỀN

Những người học Thiền thường ở với thầy ít nhất mười năm trước khi họ bắt đầu dạy người khác. Tenno đã qua thời gian tu học và trở thành sư, một hôm đến viếng Thiền sư Nam Ẩn. Bất ngờ hôm ấy trời mưa, nên Tenno đi guốc và che dù. Sau khi chào hỏi xong, Nam Ẩn nói: “Giả sử ông để đôi guốc của ông ở tiền đình. Tôi muốn biết cây dù của ông ở bên phải hay bên trái đôi guốc.”

Tenno bối rối và không trả lời ngay được. Sư nhận ra rằng mình chưa thể hiện được Thiền trong mọi phút. Sư trở thành đồ đệ của Nam Ẩn và học thêm sáu năm nữa để hoàn thành Thiền trong mọi phút.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

49. MƯA HOA

Tu-bồ-đề là đệ tử của Phật. Ông có thể hiểu được tiềm năng của tánh không, quan điểm cho rằng không có gì hiện hữu ngoại trừ trong tương quan chủ thể và khách thể.

Một hôm Tu-bồ-đề đang ngồi dưới một gốc cây, trong tâm cảnh tánh không cao độ. Hoa bắt đầu rơi quanh ông.

“Chúng tôi đang ca ngợi ngài vì bài thuyết pháp của ngài về tánh không,” chư thiên thì thầm bên tai ông.

“Nhưng tôi đâu có nói tánh không, Tu-bồ-đề nói.

Chư thiên trả lời, “Ngài không nói tánh không, chúng tôi không nghe tánh không. Đây là tánh không chơn thật.” Và hoa rơi lên Tu-bồ-đề như mưa.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)

50. XUẤT BẢN KINH

Thiết Nhãn (Tetsugen), một tín đồ nhiệt thành của Thiền, quyết định xuất bản các bộ kinh thời đó chỉ có ở Trung hoa. Sách phải in bằng bản gỗ với một lần in bảy ngàn bản là một việc làm to lớn phi thường.

Thiết Nhãn bắt đầu bằng cách đi quyên góp tài vật cúng dường cho mục đích này. Một vài người đồng tình đã tặng Thiết Nhãn cả trăm lạng vàng, nhưng phần nhiều lúc ấy ông chỉ nhận được mấy đồng xu nhỏ. Thiết Nhãn cảm ơn mỗi người cho bằng một lòng biết ơn như nhau. Sau mười năm, Thiết Nhãn đã đủ tiền để bắt đầu công việc của mình.

Bất ngờ vào lúc ấy nước sông Uji tràn ngập. Nạn đói theo sau. Thiết Nhãn đem hết tiền của đã quyên góp được để in kinh ra cứu những người sắp chết đói. Rồi ông bắt đầu quyên góp trở lại.

Mấy năm sau đó nạn dịch lan tràn khắp cả nước. Thiết Nhãn lại đem những gì góp nhặt được ra giúp đồng bào ông.

Ông lại bắt đầu việc làm của mình lần thứ ba. Và sau hai mươi năm, mong ước của ông mới được thành tựu. Những mộc bản đã cho ra đời các bộ kinh in lần đầu tiên, ngày nay, người ta còn thấy ở chùa Hoàng Bá ở Kyoto.

Người Nhật kể cho con cháu họ nghe rằng Thiết Nhãn đã làm ba bộ kinh, hai bộ đầu vô hình nhưng vượt hẳn bộ thứ ba.

(Thiền Cốt Thiền Nhục)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/10/2010(Xem: 12418)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3618)
1. Do đâu mà có Thiền Minh Sát? Thiền Minh Sát là một loại thiền căn bản và chính yếu của Phật Giáo Nguyên Thủy. 2. Vipassana nghĩa là gì? Chữ "Vipassana" được chia làm hai phần "Vi" có nghĩa là "bằng nhiều cách" và "Passana" có nghĩa là "nhìn thấy". Vậy "Vipassana" có nghĩa là thấy được bằng nhiều cách khác nhau. (Minh sát).
08/10/2010(Xem: 3609)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổ và mọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc. Khắp nơi trên thế giới nhân loại đang tìm đủ cách để ngăn ngừa hoặc làm vơi đi nỗi đau khổ và tạo an vui hạnh phúc. Tuy nhiên mục đích chính yếu của họ chỉ nhằm tạo hạnh phúc thể chất bằng phương tiện vật chất. Thật ra, hạnh phúc hay không đều do ở tâm của chúng ta. Vậy mà rất ít người nghĩ đến vấn đề phát triển tinh thần. Những người muốn rèn luyện tinh thần lại càng hiếm hoi hơn nữa.
06/10/2010(Xem: 3368)
Có nhiều cách thức để chúng ta tiếp cận với kinh điển. Chúng ta đọc kinh như một tác phẩm văn học để tìm ra những biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng, hay đọc kinh để hiểu những phạm trù triết học, những tư tưởng ẩn áo mà kinh hàm chứa, v.v… Cách thức nào không quan trọng. Song, một điều mà người học Phật cần phải lưu ý là cái chân lý thường nghiệm thì phi ngôn thuyết; nó có được do sự kinh nghiệm của mỗi ngư
28/09/2010(Xem: 6506)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
28/09/2010(Xem: 6443)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
21/09/2010(Xem: 7178)
Đây là bản dịch mới của bài KinhĀnāpānasatisuttamthuộc Tạng Kinh, Trung Bộ, tập III, bài 118. Căn cứ theovăn tự, bản dịch này trình bày một số điểm xét ra có phần khác biệt so với cácbản dịch trước đây. Những điểm này chủ yếu được trình bày ở phần cước chú.
16/09/2010(Xem: 6340)
Khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh – năm nay đã 86 tuổi – được giới thiệu trước công chúng tại quảng trường Copley vào chiều Chủ nhật, Thầy bắt đầu bằng hành động ngồi yên và không nói gì trong suốt 25 phút.
16/09/2010(Xem: 9285)
Chúng ta tiếp nhận huyết thống, gốc rễ từ Tổ tiên, nhưng nếu không có Ông Bà, Cha Mẹ sinh đẻ, nuôi nấng thì không có chúng ta hôm nay, nên phận làm con cần phải biết về danh tánh, gia phả, giòng họ và nơi sinh cơ lập nghiệp của Tổ tiên mình. Đối với người Phật Tử cũng vậy. Đức Phật thị hiện tại thế gian để khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật, nhưng nếu không có Thầy, Tổ truyền đăng tục diệm, truyền giới, truyền pháp thì mạng mạch Phật pháp không thể tồn tại cho đến hôm nay.
04/09/2010(Xem: 5424)
Hai truyền thống của Nam và Bắc truyền đều thừa nhận rằng, vào thời hoàng kim Phật giáo, mười ba năm đầu trong Tăng đoàn không có giới luật, nhưng sau đó sự lớn mạnh của Tăng đoàn, sự khác biệt về nhận thức nên đức Phật đã chế ra giới luật để “phòng hộ các căn” nhằm giúp cho mỗi thành viên trong Tăng đoàn được thanh tịnh và giả thoát. Thiết nghĩ, Bát kỉnh pháp cũng không ngoài những thiện ý đó!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567