Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược khảo "xưng tôn"

02/05/201213:37(Xem: 5428)
Lược khảo "xưng tôn"
LƯỢC KHẢO ‘XƯNG TÔN'
Tỳ kheo Nguyên Các

Ngày nay chúng ta đều khẳng định với nhau rằng, văn hóa của nhân loại, khởi nguồn từ bốn nền văn minh cổ, đó là: Ai Cập, Babylon, Trung Quốc và Ấn Độ. Bốn vùng văn hóa cổ này, qua bao biết đổi của thời gian cũng như sự biết thiên của nhân loại, nay chỉ còn hai – Trung Quốc và Ấn Độ.

Nói như thế không nghĩa là Ai Cập và Babylon (ngày nay là Iraq), hoàn toàn không để lạ dấu tích gì. Mặc dù hai quốc gia ấy ngày nay không tồn tại nữa, nhưng những gì các nhà khảo cổ khai quật, phát hiện được tại hai vùng văn hóa cổ này, đã đóng góp rất lớn vào kho sử liệu của thế giới. Trung Quốc và Ấn Độ cho đến nay, vẫn là hai quốc gia lớn mạnh, đó là do hai nền văn hóa ấy vẫn tồn tại và đang phát triển. Và, thế giới biết đến hai quốc gia này, một phần nào đó cũng do văn hóa Phật giáo. Nói như thế để chúng ta thấy rằng, sự ra đời của đức Thích Ca Mâu Ni, là một đểm sáng trong lịch sử văn hóa nhân loại. Điều này đã được tỏ rõ qua câu nói khi Ngài đản sanh: Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn.

Một lời tuyên ngôn mà cho đến nay, nhân loại chưa từng có người thứ hai nói, và thực hiện được. Thế nên, cũng gây nhiều tranh luận, làm gì đứa trẻ mới ra đời lại nói được lời như thế? Nhưng vấn đề này, không phải góc độ mà nội dung bài viết muốn đề cập… Bạn có thể tin hoặc không tin, điều đó tùy bạn.

PhatDanSanh-smBậc Bồ tát ấy hạ sanh như thế nào? Theo Hán tạng Phật Bản Hạnh kinh quyển một, phẩm Như Lai Sanh[1] thuật rằng: Khi Thái tử xuất thai, trên không trung, muôn ánh hào quang thần diệu tỏa, che cả cái nắng chói chang của mặt trời. Vì, hào quang ấy là ánh sáng của trí tuệ, của đức cả bao lao, của lòng từ bi rộng lớn, soi rõ cả cõi trời cõi người, cũng như sự chuyển động vô thường của kiếp nhân sinh. Chư thiên nữ cùng quyến thuộc, cử nhạc trời ca tụng, công đức tu hành của Bồ tát trong nhiều đời nhiều kiếp. Tự tại Thiên vương cùng thiên chúng, với tràng phan tuyệt sắc, cung kính lễ Thái tử - bậc Bồ Tát hạ sanh. Liền ấy, Thái tử với tư thế vững chãi, bước bảy bước và nói: “Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn, tam giới giai khổ, Ngô đương an chi”(天上天下, 唯我為尊, 三界皆苦, 吾當安之)[2].

Bậc Bồ tát hạ sanh như thế !

Hào quang của trí tuệ, của lòng từ ấy, làm dịu mát ngọn lửa sân si đang hừng hực cháy trong tâm chúng sinh, cũng như cái nắng vật lý của vũ trụ. Lời ‘xưng tôn’ ấy là của bậc Bồ tát, trải qua bao kiếp tu hành, cũng như nguyện lực vị tha nhân.

Và, truyền thuyết về ‘bảy bước xưng tôn’ được ghi chép trong nhiều bài kinh, ở cả Hán tạng cũng như Pali tạng. Như kinh Sơ Đại Bản, trong tạng Trường Bộ hay Trường A hàm tương đương, đức Thích Ca nói về nhân duyên xuất thế, tu tập, thành đạo… của chư Phật trong quá khứ, cũng như bản thân Ngài, thì tuyên ngôn ấy là:

Aggo `ham asmi lokassa,

Jeṭṭho `ham asmi lokassa,

Seṭṭho `ham asmi lokassa,

Ayam antimā jāti,

Natthi dāni punabbhavo.

Ta là bậc tối thượng ở trên đời

Người tối tôn không ngoài Ta

Ta là đấng xuất thế

Đây là lần tái sinh cuối cùng

Sẽ không còn tái sinh![3]

Lời kinh ấy trích từ Trường bộ kinh (pi. pīghanikāya), Đại phẩm(pi. mahāvagga), kinh Đại thành tựu(mahāpadānasutta)của Pali tạng. Lời ấy so với câu trong kinh Tu Hành Bản Khởi,do Đại sư Trúc Đại Lực và cư sĩ Khang Mạnh Tường dịch vào đời Hậu Hán, của Hán tạng cho thấy, dù cách hành văn có khác, nhưng ý nghĩa thì như nhau. Là hạnh nguyện thoát sanh tử luân hồi khi Ngài đến với nhân loại, đồng thời đưa đường chỉ lối cho chúng sanh trong đêm trường tăm tối của vô minh, của phiền não khổ đau, vào đạo giải thoát giác ngộ. Ngày nay, chúng ta có được con đường chánh pháp để đi, cũng là từ hạnh nguyện ấy.

Thế nhưng, cũng tuyên ngôn đó trong Hán tạng, mỗi dịch giả, hay nhóm biên dịch, khi chuyển ngữ từ tiếng Phạn hoặc Pali sang chữ Hán lại có sự khác biệt nhất định. Chúng ta đi sâu tìm hiểu phần khác nhau ấy, trong các kinh điển trong Hán tạng, để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa lời khẳng định ấy:

Đại Bổn kinh trong tạng Trường A Hàm do ngài Phật-đà Da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch, vào thời hậu Tần, là: Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử. (天上天下, 唯我為尊, 要度眾生, 生老病死).[4]

Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi kinh quyển một, Niếp Đạo Chân đời Tây Tấn chỉ dịch là: Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá Ngã giả (天上天下, 尊無過我者).[5]

Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả kinhquyển một, Cầu-na-bạt-đà-la dịch đời Tống lại chép: Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắng, vô lượng sanh tử ư kim tận hĩ (我於一切天人之中最尊最勝, 無量生死, 於今盡矣).[6]

Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi kinhquyển một, do cư sĩ Chi Khiêm dịch vào đời Ðông Ngô (229 -280) ghi là: Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn, tam giới giai khổ hà khả lạc giả (天上天下, 唯我為尊, 三界皆苦, 何可樂者?).[7]

Kinh Hiền Ngu quyển mười, do nhóm ngài Tuệ Giác thời Nguyên Ngụy dịch, thì chỉ đơn giản ngắn ngọn chuyển thành: Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn (天上天下, 唯我為尊).[8]

Qua các trích dẫn, chúng ta thấy, văn trong kinh Hiền Ngu Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi kinh, nếu so với các kinh khác thì thiếu hẳn vế độ sanh. Kinh văn trongQuá Khứ Hiện Tại Nhân Quả kinh có rõ ràng hơn, thế nhưng vẫn chỉ khẳng định, Bồ tát sẽ chấm dứt sanh tử luân hồi trong lần giáng sanh này, mà chưa nói đến hạnh nguyện quảng độ quần sanh. Nhưng lại phù hợp với câu kinh trong Pali tạng. Thế nhưng, bậc Bồ tát sẽ liễu ngộ vô thường, khổ, không, vô ngã lại tuyên bố ‘Ta là cao quý nhất’, như vậy có ‘ngã’ quá không?

Văn Pali khi dùng chữ Attađể biểu đạt ‘tôi’ ‘ta’, ứng với chữ ngãdanh từ trong chữ Hán, hay ātmantrong Phạn ngữ. Thế nhưng câu tuyên ngôn không hề có những chữ ấy, mà lại dùng `ham(ngãđại từ).Chúng ta dựa trên từ ngữ phân tích là như thế. Hơn nữa, bậc giác ngộ hoàn toàn, đạt nhất thiết trí, dứt khỏi sanh tử luân hồi (sa. saṃsāra); trong lịch sử nhân loại, đức Thích Ca là một. Thế thì, câu ‘xưng tôn’ ấy về từ ngữ cũng như thực tế, đều là sự thật, được lịch sử ghi nhận. Nhưng khi chúng ta dùng ‘duy ngã độc tôn’, đã tạo cơ hội cho một số thành phần chỉ trích đức Phật cũng như Phật giáo. Vì chữ độc (獨) và chữ vi (為) trong Hán tự khác rất nhiều. Mặc dù, trong Hán tạng A hàm, có đôi chỗ dùng là ‘độc tôn’, thế nhưng chúng ta phải xem bài kinh ấy Phật nói gì, trong hoàn cảnh nào, với đối tượng nào? Đừng lấy câu, hay ý nhỏ thay cả bài kinh, như thế có thể đẫn đến kết quả như thầy mù sờ voi, mà sai đi thánh ý.

Bậc đại Thánh ứng hiện ở thế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi. Đức Phật đã làm được. Hình tượng thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) lúc vừa đản sanh bước bảy bước, và mỗi bước có hoa sen đỡ chân, có thể là hình ảnh biểu đạt con đường đi đến sự tỉnh thức hoàn toàn. Vậy, ‘duy ngã vi tôn’ ở đây, chúng ta có thể hiểu theo nghĩa là, Ngài là bậc tôn sư (thầy) của ba cõi, dạy chúng sanh con đường xa rời bể khổ sông mê, lên thuyền bát nhã về nơi bến giác. Và, con đường ấy là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát Thánh đạo…

Ngày nay, vào lễ Phật đản chúng ta thường thấy những câu đối có vế ‘bảy bước xưng tôn’. Mỗi bước chân, là sự chuyển hóa của hạnh nguyện, với lời khẳng định, Ngài sẽ giác ngộ và đem pháp giải thoát sinh tử truyền dạy cho chúng sanh; bằng Từ, Bi, Hỷ, Xả, bằng trí tuệ, để đem an lạc và hạnh phúc đến cho muôn loài.

Vĩnh Nghiêm, Phật đản, PL. 2556

ĐT: Đại Chánh Tân Tu Tạng Kinh, Cty TNHH xuất bản Tân Văn Phong, Đài Loan xb, 1983.



[1] Phật Bản Hạnh kinh, ĐT, q4, no. 193, p. 59.

[2] Tu Hành Bản Khởi kinh, ĐT, q3, no. 184, p. 463, c13-16.

[3] Pali tạng, Trường Bộ Kinh, p.151; hoặc Ht. Thích Minh Châu dịch, Trường Bộ Kinh, p.453.

[4] ĐT, q1, no. 1, p. 4, c1-2

[5] ĐT, q3, no. 188, p. 618, a19.

[6] ĐT, q3, no. 189, p. 625, a27-28.

[7] ĐT, q3, no. 185, p. 473, c2-3

[8] ĐT, q4, no. 202, p. 418, c25-26

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/09/2012(Xem: 4976)
Có câu chuyện Thiền trích dịch từ cuốn “Collection of Stone and Sand”, xuất hiện vào thế kỷ 13, do thiền sư Muju viết bằng Nhật ngữ, tên là Shasekishu, dịch giả Paul Reps dịch sang Anh Ngữ...
03/09/2012(Xem: 3413)
Thuận tánh khởi tu là một thành ngữ được dùng nhiều trong Thiền tông, và nói chung, trong kinh luận Đại thừa. Thuận tánh là y vào tánh, ở nơi tánh, ở trong tánh, làm theo tánh. Tánh là bản tánh, pháp tánh, tánh Không, Như Lai tạng tánh, tánh Giác, Phật tánh… Thuận tánh khởi tu là y theo tánh mà khởi hạnh tu. Ý nghĩa này còn được diễn tả bằng những từ ngữ như Xứng tánh khởi tu (Thiếu Thất lục môn), tùy thuận tánh Giác (Kinh Viên Giác), an trụ tánh Giác, xứng tánh làm Phật sự (kinh Nhật tụng), thuận tánh khởi tu, thuận tánh khởi dụng (Thiền sư Hàm Thị giảng Kinh Lăng-già)…
01/09/2012(Xem: 9590)
Phật tính [1] có thể là bản chất trống rỗng của tâm thức, mà trong trường hợp nào nó không là một thức. Nó cũng liên hệ đến tâm tịnh quang nguyên sơ là điều liên hệ hơn đến giáo huấn mật thừa tantra.
24/08/2012(Xem: 4309)
Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen Zenji, hay Eihei Dogen (1200-1253)) là một đại thiền sư thời cổ, và được nhiều người xem như một vị thiền sư vĩ đại nhất. Phật giáo đồ Nhật Bản trong tất cả mọi tông phái đều kính ngưỡng Đạo Nguyên như một vị bồ tát. Ngài là người đầu tiên đã đem dòng thiền Tào Động đến Nhật Bản. Sau khi học đạo với các vị thầy ở Nhật, Đạo Nguyên qua Trung Hoa tu học. Ngài đại ngộ ngay khi sư phụ Trung Hoa của ngài là Ju Ching nói phải “buông hết cả thân lẫn tâm”. Sau đó ngài đã đến trình kiến giải và được sư phụ ấn chứng. Lòng đầy tri ân, Đạo Nguyên quỳ sụp xuống đảnh lễ thầy. Ju Ching nói, “Buông luôn cả cái buông!” “Hiện thành công án” (Genjokoan) là một chương nổi tiếng trong quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” (Shobogenzo), nói đến sự liên hệ của tu thiền và giác ngộ. Đây là một tuyệt tác vô song, với những lời lẽ thâm sâu bàng bạc ý vị thơ, biểu lộ tri kiến của một bậc giác ngộ đã vượt ngoài đối đãi.
07/07/2012(Xem: 13337)
Trong mỗi buổi lễ hàng ngày, các thiền viện thuộc tông Tào Động (Sōtō Zen) Nhật Bản đều có tụng bài Sandōkai, như vậy cho thấy rõ tầm quan trọng của bài tụng này trong tông phái Tào Động. Nhiều thiền sư Nhật đã giảng và viết về bài đó một cách kỹ lưỡng để các thiền giả hiểu rõ ý nghĩa.
06/07/2012(Xem: 5047)
Bắt đầu từ ngày mai, học viện chúng ta có thể nói hoạt động mỗi năm một lần, kỷ niệm thư viện Hoa Tạng, cố viện trưởng cư sĩ Hàn Anh vãng sanh năm thứ tám. Mỗi năm vào ngày này, chúng ta đều có tổ chức nghi thức truy điệu.
06/07/2012(Xem: 7558)
Trước tiên xin cảm ơn Ngài vô cùng vì đã nói chuyện với chúng tôi sáng nay. Thưa Đức Thánh Thiện, Ngài vừa nói chuyện với sinh viên ở San Diego về 'lòng từ bi không biên giới', bây giờ tôi muốn hỏi Ngài trước hết về 'lòng từ bi trong biên giới'. Ngài nghĩ Hoa Kỳ có phải là một quốc gia từ bi không?
24/06/2012(Xem: 6934)
Đây là nhắc nhở cho tất cả về ý nghĩa "Đưa Tâm Về Nhà". Bây giờ mình phải ngược dòng lưu chuyển để đưa tâm về nhà. Như đã nói, hiện tại mình đang ở đây nhưng tâm mình thì đang lang thang ở quê người, đó gọi là xa quê, xa nhà, là mất gốc. Lang thang đây là lang thang ở trong các trần, đuổi theo các duyên, nó buông cái này, bắt cái kia hoài không chịu dừng. Chính đó là tâm sinh tử, là tâm biến động. Do vậy mà trôi theo dòng luân chuyển sinh tử luân hồi. Vua Trần Thái Tông tuy là vua nhưng ông cũng tu thiền, sáng tỏ được tâm nên trong bài kệ "Núi Thứ Nhất", vua nói rằng:
20/06/2012(Xem: 4781)
Như các bạn đều biết, chuyến đi mới đây của tôi tới Ladakh đã phải rút ngắn lại vì sức khỏe của tôi không được tốt. Tôi đã phải hủy bỏ chương trình ở Nyoma vào phút cuối, song các bạn hữu và đạo sinh của tôi đã tỏ ra vô cùng thông cảm, họ thường xuyên thỉnh cầu tôi phải nghỉ ngơi nhiều hơn và quay lại đây khi nào sức khỏe của tôi trở nên tốt hơn. Đôi khi, suy xét về sự việc này một cách khách quan, chẳng ai trong số chúng ta có thể trốn tránh được nghiệp quả. Chúng ta có thể làm điều gì đó để giảm bớt nghiệp quả, song trốn tránh hoàn toàn là điều không thể.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567