Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lá Thư Thiền

21/12/201111:22(Xem: 5932)
Lá Thư Thiền


thien-dinh-03

Ngày ..... tháng .... năm ....

Con thương mến,

Thầy rất hoan hỷ khi con đã thấy được vấn đề. Và thầy cũng mừng là con có tâm định bước đầu khá tốt. Tuy nhiên, đó là kết quả nỗ lực của con, không phải là thành tựu của pháp. Con có nhận ra sự khác biệt này không? Con đừng cố gắng thiền định quá làm gì, chủ yếu là con có thể để cho thân tâm nghỉ ngơi thoải mái sau những cố gắng đầy mệt mỏi trong công việc phải xử lý hàng ngày. Hãy thư giãn, buông xả mỗi khi căng thẳng, bất an, đó chính là định, là lấy lại thăng bằng giữa những thái quá hay chao đảo bất thường mà thôi. Thái quá trong đời sống bên ngoài là lo toan, nỗ lực để mưu cầu công danh, sự nghiệp. Còn thái quá trong đời sống tâm linh lại là những tầm cầu, mong đợi đạt được một sở đắc an lạc trong thiền định. Hai hướng có vẻ khác nhau nhưng đều phát xuất từ cái ngã cầu toàn.

Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt để quan sát, lắng nghe, học hỏi - chứ không cần phải thiền định quá sâu - thì con sẽ nhanh chóng khám phá ra bản chất vô thường, khổ, vô ngã của đời sống để có thể an nhiên tự tại, không chấp thủ, không dính mắc, trong bài học tự giác, giác tha, lợi mình, lợi người. Cứ thế định sẽ tự viên mãn mà không cần con phải nhọc công tầm cầu, tranh thủ.

Nhiều khi vì muốn thiền định quá sâu làm con không trầm tĩnh được trước những biến cố nhiễu nhương, phức tạp giữa đời thường. Đơn giản chỉ vì địnhđộnglà hai đối lực đưa đến bất an, căng thẳng, mà dù con chọn phía nào cũng đều tự đánh mất thăng bằng nội tại. Trong những mức định sâu, con tưởng mình đã lấy lại được thăng bằng, nhưng đó là thăng bằng giả tạo, một thứ giả tạo quá tinh vi khiến ít người thấy được.

Hãy sống thật bình thường với một tâm hồn cởi mở, trong sáng và tĩnh tại - mà thiền Vipasanà gọi là chánh niệm tỉnh giác - thì con chẳng cần rèn luyện gì cả. Vì con chỉ cần thấy pháp (thực tại) thôi, còn mọi chuyện pháp sẽ tự biết lo liệu thế nào. Đừng để cái ngã xen vào sự vận hành hoàn hảo của pháp để rồi tự chuốc lấy điên đảo, khổ phiền. Cố gắng rèn luyện là ý đồ của cái ngã luôn muốn thủ đắc, không bao giờ buông xuống, không chịu được cái không,mà chỉ muốn sở hữu thêm, thêm mãi... như những con lạc đà trĩu nặng giữa sa mạc cuộc đời! Con ơi! Có bao giờ con tự hỏi: "Ai nỗ lực rèn luyện và rèn luyện để làm gi?"khi bóng tối của vô minh vẫn còn che phủ sự thật của cuộc đời.

Thầy Viên Minh
Ý kiến bạn đọc
15/12/201801:15
Khách
Nam Mô A Di Đà Phật !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2010(Xem: 5726)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 8250)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
27/10/2010(Xem: 11472)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
19/10/2010(Xem: 4581)
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát
18/10/2010(Xem: 6195)
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tùy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
16/10/2010(Xem: 5245)
Sự chia rẽ giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa trầm trọng ở mức độ nào? Sao bên nào cũng tự nhận là đi đúng đường và cao siêu hơn? Và tại sao Phật từng nói trong Kinh Pháp Hoa, Đại Thừa là hạt giống rắn chắc, khác với Tiểu Thừa là hàng thấp thỏi, trình độ kém, như vậy Phật đã xếp hạng giữa hai phái, vậy mà Tiểu Thừa vẫn tự nhận là Nguyên Thuỷ đúng lời Phật dạy
12/10/2010(Xem: 5035)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
12/10/2010(Xem: 7419)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Động đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
12/10/2010(Xem: 8826)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
12/10/2010(Xem: 7628)
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]