Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ những ý thức

08/04/201314:27(Xem: 6780)
Từ những ý thức

hoacucdon_1Từ những ý thức…

Thích Phổ Huân

Khi còn trong bụng mẹ, chờ đợi được sinh ra con người đã phải quờ quạng tự muốn giải thoát khỏi tù túng tối tăm này. Và rồi khi chào đời, con người lại tiếp tục quờ quạng muốn giải thoát những trói buộc phiền lụy cuộc đời. Như thế đó, cả hai hoàn cảnh trước khi được sanh ra, sau khi có mặt, con người đều nằm trong vòng cương tỏa mất tự tại an lạc.

Khi còn là một đứa bé thì vòng trói buộc tối tăm chỉ có một lực tác động vừa phải, có thể dễ nguôi ngoai, nhưng khi đã trưởng thành, cường lực của sự trói buộc do hoàn cảnh tác động vào tâm trở nên kiên cố, khó mà cưỡng lại. Lực tác động này lặng lẽ ngấm ngầm trong tư tưởng, càng lúc càng thâm sâu, tinh tế như những rễ cây bám vào đất lan tỏa bủa vây cố giữ thân cây được vững vàng kiên cố. Dòng tư tưởng do đây sinh ra nhiều sai biệt, tạo nên vô số ý thức, rồi phát sinh, thể hiện qua ngôn ngữ hành động…

Cuộc sống xã hội, nhân sinh, triết lý đều huân tập, khởi phát từ nhiều ý thức kiên cố này. Có những ý thức xây dựng phát huy chân thiện, và cũng không tránh khỏi những ý thức lệch lạc sai trái dẫn đến phá hủy chân giá trị đời sống. Dòng tư tưởng chánh tà, chân ngụy đó cứ mãi luân lưu như dòng nước chảy xiết, từ hàng hàng thế kỷ, từ lúc khởi nguyên của loài người cho đến thời đại ngày nay, và chắc chắn sẽ tiếp tục, tiếp tục mãi.

Thành thật nhìn nhận như vậy, có phải tư tưởng bi quan? Lạc quan hay bi quan chỉ là những ngôn từ nhận dịnh, thẩm xét đánh giá một hoàn cảnh hay một thái độ của con người; nhưng trong hoàn cảnh đó, con người đó, đã đưa ra chân tướng giá trị đích thực cụ thể, thì vậy không cần phải cho là bi quan hay lạc quan.

Một cuộc sống đẹp, một con người nhân đức, tự điều đó, hình ảnh đó nói lên diễn lên chân giá trị. Một điều không hay, một con người sai trái cũng tự giá trị và kết quả nói lên viễn ảnh đó. Người xưa cho rằng hãy tự nhìn nhận những gì chính mình hành động, suy xét, những gì đang diễn tiến trong dòng sống liên quan đến môi trường chung quanh…

Sự thành thật nhìn nhận suy xét, đưa người đến gần hơn trong cái nhìn khách quan dung dị.

Con người chúng ta ngày nay cũng đã lãnh hội, thẩm thấu những kiến thức triết học xa xưa; lại có thể dung hòa, hóa giải để an lập vào hoàn cảnh hiện tại một cách tương đối thật đẹp. Dù vậy vẫn phải đối đầu với nhiều khủng hoảng trong đời sống, về vấn đề an lạc tinh thần. Việc không an lạc tinh thần, cho thấy những gì con người ngày nay hiểu biết về thời xưa, chỉ là hiểu biết theo lý giải phân tích phạm trù triết học, mà không phải hiểu theo việc tri hành thực tại. Tuy nhiên điều này còn nhiều yếu tố cho nguyên nhân đó.

Nền khoa học vật chất ngày càng phát triển, cũng có thể là một yếu tố chính, đã làm con người chạy theo quên mất khoa học tâm linh; cũng biết rằng khoa học vật chất sẽ không bao giờ kết thúc một khi có người chẳng bao giờ dừng nghỉ.

Chung quy lại, tất cả chỉ trở về với chính con người; chính con người là nguyên nhân, kết quả, dẫn đến hoàn cảnh xấu đẹp. Nhấn mạnh đến danh từ con người, là nói lên một sự phân biệt với thứ loại khác, như là loài vật; và như vậy nghĩa của hai chữ “con người” ở đây phải là một cộng đồng nhân loại.

Có thể hiểu thêm rằng trong việc kiến thiết thăng hoa đời sống, không thể riêng rẻ cá nhân nào làm nên được, mà phải tương quan tương hợp. Kẻ này là ân nhân của ta, kẻ kia lại có người khác là ân nhân; cũng như mỗi người đều là ân nhân trên phương diện góp phần có mặt trong một cộng đồng liên hệ, tạo lập một xã hội đất nước.

Nhìn nhận như vậy con người sẽ thấy có sự hòa hợp, hài hòa liên hệ với nhau để tạo nên sự gần gũi mật thiết giữa người với người, giữa cá nhân với đoàn thể, giữa cộng đồng với nhân loại. Và như thế chính mỗi cá nhân sẽ dễ hòa nhập, mà tự xem nhẹ bản ngã của mình. Đây là một bước vững chắc tiến đến việc xây dựng hạnh phúc căn bản đầu tiên, cho bản thân, rồi tiếp theo bằng thái độ cởi mở hơn, sẽ hài hòa ảnh hưởng đến xã hội, quốc gia thế giới.

Trong quyển “Phương tiện thiện xảo” Ngài Tarthang Tulku đã nêu lên tính cách hài hòa quan trọng của một cá nhân, liên hệ đến đời sống trong gia đình, xã hội, mà đó là cách đẹp nhất không thể không thực hành theo “Sống trong mối liên hệ hòa thuận với thế giới làm tăng cường sự khai triển tri thức và tính sáng tạo trong đời sống mình và trong đời sống của những kẻ ở bên cạnh mình. Nhu cầu để giữ gìn cái hình ảnh của mình về mình biến mất đi, vì kẻ khác đánh giá mình đúng mức như thực mình là ai thực thụ, và về phần chúng ta thì chúng ta cũng đánh giá đúng mức giá trị của những con người sống chung quanh mình. Học hỏi cách truyền thông diễn đạt đúng đắn mang đến mọi sự an bình thanh thản và niềm vui sâu đậm vào đời sống mình. Mối tương quan liên hệ của ta với những người cộng tác, với gia đình với bạn bè trở nên ấm cúng và lâu bền, vì những mối liên hệ ấy đã được đặt nền tảng trong sự thực và lòng chăm sóc ưu ái tận tụy thiết tha”(1).

Thật vậy chính điều này đã thăng hoa cách sống trong gia đình, đoàn thể, xã hội, quốc gia, nhân loại. Ngược lại, con người sẽ mãi hoài công xây dựng rồi phá hủy, phá hủy rồi xây dựng, và chẳng bao giờ kiến tạo được hoàn cảnh như con người mong muốn. Triết gia Ấn Độ Krishnamurti đã nhận định sự quan trọng về cái “ta” đối với sụ hài hòa trong môi trường sống “chúng ta không bao giờ thấy rằng chúng ta là toàn thể hoàn cảnh bởi vì có nhiều thực thể trong chúng ta, tất cả đều xoay quanh cái “ta” cái ngã. Bản ngã làm nên những thực thể mà trong nhiều hình thức khác nhau nó chỉ là những vọng dục. Từ những vọng dục kết hợp này nối lên cái hình ảnh trung tâm, nhà tư tưởng, ý chí của cái “ta” và cái “của mình” và như vậy sự phân ly đã thiết lập giữa bản ngã và cái phi ngã, giữa cái “ta” và hoàn cảnh hay xã hội. Sự ly cách này là bắt đầu của chấp tranh, bên trong và bên ngoài” (2)

Thế thì chỉ có tư tưởng cởi mở, hòa nhập và thành thật mới giúp con người thoát khỏi cái quờ quàng trong bóng “tối” của dòng đời; và như vậy bưới đi tới của con người mới sáng suốt vững chãi.

Thích Phổ Huân.

20/06/1999

-----

(1)Phương tiện thiện xảo - Phạm Công Thiện dịch. Tr 202 – Nxb Thanh Văn

(2)Giáo dục và ýnghĩa cuộc sống – Hoài Khanh dịch. Tr 72 – Nxb Sống mới.

---o0o---
Trình bày: Tịnh Tuệ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2018(Xem: 5186)
Ngày nay chủ đề Thiền không còn xa lạ đối với những ai muốn tìm hiểu và muốn định nghĩa một cách minh bạch, nhưng mấy ai hiểu và cảm nhận một cách chính xác và minh bạch về những hoạt dụng của Thiền.Tùy mỗi trường phái, mỗi góc độ để nhìn và hiểu về Thiền khác nhau, từ đó, việc hành hoạt cũng khác biệt.
23/09/2018(Xem: 4332)
Bầu trời trên cao xa, có đêm thì trăng sáng rực trần gian, chị hằng như đang mĩm cười nhìn xuống trần gian, còn chú cuội bên cây đa đang thiêm thiếp ngủ, có bữa thì tối thui như đêm ba mươi, ngữa bàn tay không thấy. Lúc thì trời quang mây tạnh, mưa thuận gió hòa, khi thì phong ba bão táp, tàn hại thiên nhiên, phá bỏ biết bao công trình vĩ đại mà con người đã bỏ thật nhiều sức lực tiền của để xây dựng qua nhiều thế kỷ, nhiều triều đại.
15/09/2018(Xem: 8380)
Thông Báo về Khóa Thiền Tập & Lớp Học Yoga tại Tu viện Quảng Đức, Khóa Thiền Tập & Lớp học Yoga tại Tu viện Quảng Đức 105 Lynch Rd, Fawkner, Victoria, 3060 (Email: quangduc@quangduc.com; Website: www.quangduc.com) Bắt đầu khai giảng lúc 10:00 sáng Thứ Bảy, ngày 6 tháng 10 năm 2018 Sau đó, mỗi Thứ Bảy từ 10:00 sáng đến 11:30 sáng Tại sao chúng ta cần thiền tập ? Đời sống tất bật hiện nay khiến cho con người căng thẳng, lo âu và mỏi mệt. Thiền định là phương cách giúp ta giải tỏa stress về tâm lý, cải thiện tốt về sức khỏe (chấm dứt trầm cảm, mất ngủ…), giúp thư giãn, đưa hành giả đến hạnh phúc và bình an nội tâm.
06/07/2018(Xem: 4713)
"Bạch cốt": xương trắng "Quán": dùng tâm mà xem xét Trong Phật giáo, một trong những phép quán mà chư tăng ni thường hành là phép Tử Quán (quán về sự chết) nhằm diệt trừ dâm dục. Sáng và chiều, họ phải thường tự răn nhắc mình về sự bấp bênh của mạng sống, cái chết có thể đến đối với họ bất cứ lúc nào. Lại phải nghĩ tới tình trạng ô nhiễm của bản tâm còn chưa được giải quyết có thể dẫn tới sự tái sanh bất hạnh nếu tử thần đến bất chợt. Như vậy, họ phải dùng tất cả sự quyết định, năng lực, cố gắng, nhẫn nại, không lay chuyển, sự chú tâm với tâm thức trong sáng của mình để diêt trừ các tình trạng xấu ác của bản tâm - chớ không thể chần chờ hay lơ đãng.
27/06/2018(Xem: 6593)
Tại sao chúng ta không dạy bạn Chánh niệm? AnneMarie Rossi - Sáng lập viên & CEO của BeMindful Translated by Bạch X. Phẻ Tâm Thường Định Thay lời giới thiệu: Chánh niệm cho chúng ta không gian giữa những cảm xúc và phản ứng của mình. Chánh niệm có nghĩa là phải giành sự chú ý, với lòng tử tế và kiên nhẫn, với những gì đang xảy ra bên trong và bên ngoài của bạn ngay bây giờ. Thuật ngữ "tâm khỉ" có nghĩa là cảm thấy bồn chồn, điên cuồng và phân tâm. Mục tiêu của sự thực hành ý thức là làm dịu sự nhạo báng của cái “tâm khỉ” này. Harvard (trường đại học nổi tiếng ở Hoa Kỳ) đã tiến hành một nghiên cứu, và họ xem xét hơn 1000 người từ khi sinh ra cho đến tuổi 32, để tìm hiểu những tính cách và nhân tố đã giúp họ thành công. Tính cách hay những điểm chung nào đã tìm thấy ở một cá nhân thành công?
17/03/2018(Xem: 11775)
Phiên bản tiếng Anh của quyển sách này được xuất bản tại Mỹ vào tháng 4 năm 2016, tựa là The Heart of Meditation, Discovering Innermost Awareness/Tâm điểm của Thiền định, Khám phá thể dạng tỉnh thức sâu xa nhất, do Jeffrey Hopkins dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Anh. Tháng 6 năm sau thì bản dịch tiếng Pháp của quyển sách này cũng đã được xuất bản tại Pháp, tựa là Le Coeur de la Méditation, Decouvrir l'esprit le plus secret/Tâm điểm của Thiền định, Khám phá tâm thức thần bí nhất, dịch giả là bà Sofia Stril-Rever.
15/03/2018(Xem: 14930)
Nhẫn nại là 10 pháp hành Ba la mật cho các vị Bồ Tát có ý nguyện trở thành Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác hoặc Phật Thinh Văn Giác. Những pháp hành đó là : 1- Bố thí 2- Trì giới 3- Xuất gia 4- Trí tuệ 5- Tinh tấn 6- NHẪN NẠI 7- Chân thật 8- Quyết tâm 9- Từ bi 10- Tâm xả
08/03/2018(Xem: 5346)
Bài viết này sẽ khảo sát một số thắc mắc thường gặp về Thiền Tông, hy vọng sẽ tiện dụng cho một số độc giả còn nhiều nghi vấn. Những chỗ cần tham khảo, xin dò theo ký số kinh bản, hay dò theo các liên kết cuối bài. Một số câu sẽ được ghi kèm tiếng Anh để độc giả thấy ngay trước mắt không phải tạm ngưng để dò bản tiếng Anh trên mạng.Bài này sẽ tập trung vào khía cạnh thực dụng lời Đức Phật dạy, và sẽ viết rất mực đơn giản ở mức có thể có. Trong phần Ghi Chú cuối bài, độc giả sẽ thấy các ký số không bình thường, vì bài này được viết đi, viết lại nhiều lần, và khi cần ghi chú thêm giữa bài, đành chọn cách ghi số xen vào. Bài viết này có vài chỗ sẽ gây suy nghĩ phức tạp, nhưng người viết hoàn toàn không có ý muốn tranh luận, vì tự biết mình tu học chưa tới đâu, và cũng vì chỉ muốn giải thích Phật pháp qua những khía cạnh có thể thực tập tức khắc, để độc giả có thể kinh nghiệm ngay trên thân và tâm trong thời gian nhanh nhất.Mọi sai sót xin được sám hối và chỉ dạy.
27/01/2018(Xem: 4294)
Là người Phật tử, dù tu tập theo pháp môn nào chúng ta cũng thường được nghe chư tôn đức dặn dò: "Tu tập phải luôn quay vào bên trong, quay về chính mình, không nhìn ngó ra ngoài". Không nhìn ngó ra ngoài, không có nghĩa là chúng ta lúc nào cũng nhắm mắt không nhìn ngoại cảnh. Chúng sanh có mắt để nhìn. Có tai để nghe. Có mũi để ngửi. Có lưỡi để nếm. Có thân để biết lạnh nóng. Có tâm để biết suy nghĩ, phán xét... Đó là phước báu của một con người sinh ra đời được lành lặn, thì tại sao không xử dụng những căn này để học hỏi, để thưởng thức một cuộc sống lành mạnh. Nhưng nếu là người muốn thoát khổ, muốn có cuộc sống an bình ở đời này, hay cao thượng hơn là muốn giác ngộ giải thoát trong tương lai, thì hiện tại người đó cần tu tập làm chủ tâm ngôn, ý ngôn, đồng thời làm chủ ba nghiệp của mình. Đó là Ý nghiệp, Thân nghiệp và Khẩu nghiệp.
26/01/2018(Xem: 5873)
Tu thiền chỉ xuay quanh một điểm tâm mà chỉ có những bật tu hành một thời gian dài, và đạt được giác ngộ mới vào được tâm điểm. Tôi xin lưu ý, vì những câu chuyện về tâm của Phật Giáo Đại Thừa dưới này quá phổ thông nhiều người thuật lại, thêm mắm thêm muối, tam sao thất bổn, đem râu ông ni cắm càm bà nớ nên tôi không biết chắc là Phật copied Tổ, Tàu đã đạo văn Nhật (Dr. Suzuki), Tàu đã ăn trộm của Tàu, Việt chơm chỉa từ Tàu, Ấn Độ, Nhật, Tây rồi thì mạnh ai nấy vãi tùm lum trên internet làm cho tam thế Phật oan? Tương tự, 2 câu nổ như sấm trong bài kệ 4 câu của Thiền tông dưới đây mà mọi người đổ oan cho Đạt Ma Lão Tổ “noái,” “Chỉ thẳng thật tâm, thấy tánh thành Phật!”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567