Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Dạy Vượt Qua Thiện Ác

09/08/201123:51(Xem: 3067)
Phật Dạy Vượt Qua Thiện Ác

PHẬT DẠY VƯỢT QUA THIỆN ÁC
Cư Sĩ Nguyên Giác

Phật Tử vẫn thường nằm lòng với câu 183 trong Kinh Pháp Cú, “Đừng làm ác, hãy làm thiện, giữ tâm trong sạch. Đó là lời chư Phật.” Nơi đây, hãy suy nghĩ về một câu hỏi xa hơn: có phải rằng Niết Bàn, cảnh giới mà Phật gọi là không tham sân si, không sanh diệt, không trở thành, không tạo tác... cũng là cảnh giới xa rời thiện ác? Từ đây, câu hỏi sẽ khảo sát trong bài này sẽ là, có phải Đức Phật cũng dạy pháp vượt qua thiện ác?

Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).

Đọc kỹ Kinh Pháp Cú, chúng ta sẽ thấy Đức Phật:

- nói trong đoạn 39 rằng người đã buông bỏ cả thiện và ác thì không sợ hãi gì;
- nói trong đoạn 97 rằng người đã phá hủy các nhân duyên cho mọi pháp thiện và ác là người tối thắng;
- nói trong đoạn 126 rằng người không trụ vào tất cả pháp thiện và ác thì thành tựu Niết Bàn;
- nói trong đoạn 267 rằng người đã ném bỏ hết mọi pháp thiện và ác thì được gọi là một vị sư;
- và nói trong đoạn 412 rằng người vượt qua sự trói buộc của mọi pháp thiện và ác thì được Phật gọi là một vị Bà La Môn.

Dưới đây sẽ trích dẫn 5 bản dịch Kinh Pháp Cú sau: 2 bản Việt dịch bởi HT Thích Thiện Siêu và HT Thích Minh Châu, 2 bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu và Acharya Buddharakkhita (các đoạn dẫn ra, sẽ được dịch ra Việt ngữ trong bài này). Các liên kết mạng cho 4 bản này sẽ ghi ở cuối bài này. Riêng trường hợp bản của Ngài Thiện Siêu có kèm bản Anh dịch của Đại Sư Narada, mà chúng ta sẽ dẫn ra chỉ một câu trong đoạn 97 của Pháp Cú. Riêng Ngài Thiện Siêu còn cẩn thận dịch 2 cách, trước là dịch nghĩa theo văn xuôi, rồi mới chuyển thành văn vần cho dễ tụng, dễ nhớ.

Sau đây là các đoạn Pháp Cú 39, 97, 126, 267 và 412.

Đoạn 39.

Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
39. Người tâm đã thanh tịnh, không còn các hoặc loạn, vượt trên thiện và ác, là người giác ngộ chẳng sợ hãi.

39. Người tâm không ái dục,
Không bị sân nhuế hành,
Vượt trên mọi thiện ác,
Tỉnh giác, hết sợ quanh.

Bản dịch HT Thích Minh Châu:
39. Tâm không đầy tràn dục,
Tâm không (hận) công phá,
Đoạn tuyệt mọi thiện ác,
Kẻ tỉnh không sợ hãi.

Bản dịch Thanissaro:
39. For a person of unsoddened mind, unassaulted awareness, abandoning merit & evil, wakeful, there is no danger no fear. (Dịch: Với người có tâm không ái dục, có tuệ không dao động, xả ly thiện và ác, tỉnh thức, sẽ không còn nguy hiểm, không còn sợ hãi.)

Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
39. There is no fear for an awakened one, whose mind is not sodden (by lust) nor afflicted (by hate), and who has gone beyond both merit and demerit. (Dịch: Sẽ không còn nỗi sợ nào cho người đã tỉnh thức, người có tâm không nhiễm ái dục, không nhiễm sân hận, và người đã vượt qua cả thiện và ác.)

Đoạn 97.

Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
97. Những vị A la hán chẳng còn phải tin ai, đã thấu hiểu đạo vô vi, dứt trừ vĩnh viễn nguyên nhân cùng quả báo ràng buộc, lòng tham dục cũng xa lìa; Thật là bậc Vô thượng sĩ.

97. Không tin nơi người khác,
Thông đạt lý vô sanh,
Cắt đứt mọi hệ lụy,
Triệt tiêu các mối manh (Bản của Ananda: who has put an end to occasion [of good and evil]; Dịch: người đã kết thúc mọi nhân duyên cho thiện và ác.)
Tận diệt mọi tham ái,
Bậc thượng sĩ tu hành.

Bản dịch HT Thích Minh Châu:
97. Không tin, hiểu vô vi.
Người cắt mọi hệ lụy
Cơ hội tận, xả ly
Vị ấy thật tối thượng.

Bản dịch Thanissaro:
97. The man faithless / beyond conviction; ungrateful / knowing the Unmade; a burglar / who has severed connections; who's destroyed his chances / conditions; who eats vomit: / has disgorged expectations: the ultimate person. (Dịch: Người không còn cần đức tin / đã vượt qua tín điều; không còn gì để bất đồng / hiểu được cái Không Tạo Tác; người đã phá ngục / người đã cắt mọi nhân duyên; người đã hủy các cơ duyên / các điều kiện; người đã nhai thuốc để ói mửa [xả ly]: / người đã xả ly mọi mong đợi: bậc tối thượng.)

Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
97. The man who is without blind faith, who knows the Uncreated, who has severed all links, destroyed all causes (for karma, good and evil), and thrown out all desires — he, truly, is the most excellent of men. (Dịch: Người không còn niềm tin mù quáng, người biết cái Không Tạo Tác, người cắt mọi liên hệ, phá hủy mọi nhân duyên (với nghiệp là, thiện và ác), và xả ly mọi tham ái -- người đó thực sự là bậc tối thượng.)

Đoạn 126
Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
126. Con người sinh ra từ bào thai, nhưng kẻ ác thì đọa vào địa ngục, người chính trực thì sinh lên chư Thiên, còn cõi Niết bàn chỉ dành riêng cho những ai đã diệt sạch nghiệp sanh tử.

126. Một số sanh bào thai,
Kẻ ác đọa ngục hình,
Người hiền lên thiên giới,
La hán chứng vô sinh.

Bản dịch HT Thích Minh Châu:
126. Một số sinh bào thai,
Kẻ ác sinh địa ngục,
Người thiện lên cõi trời,
Vô lậu chứng Niết Bàn.

Bản dịch Thanissaro:
126. Some are born in the human womb, evildoers in hell, those on the good course go to heaven, while those without effluent: totally unbound. (Dịch: Một số sẽ sinh vào bào thai [cõi người], kẻ ác xuống địa ngục, người thiện sinh lên trời, người không nhiễm nghiệp: sẽ vào cõi vô sanh.)

Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
126. Some are born in the womb; the wicked are born in hell; the devout go to heaven; the stainless pass into Nibbana. (Dịch: Một số sinh vào bào thai; kẻ ác sinh vào điạ ngục; người thiện tín sẽ lên trời; người vô nhiễm sẽ vào Niết Bàn.)

Đoạn 267
Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
267. Bỏ thiện và bỏ ác, chuyên tu hành thanh tịnh, lấy “Biết” chánh pháp mà ở đời, mới thật là Tỷ kheo.

267. Ai siêu việt thiện ác,
Sống đức hạnh tuyệt vời,
Thấu triệt được lẽ đời,
Là tỳ kheo đích thực.

Bản dịch HT Thích Minh Châu:
267. Ai vượt qua thiện ác,
Chuyên sống đời Phạm Hạnh,
Sống thẩm sát ở đời,
Mới xứng danh tỷ kheo.

Bản dịch Thanissaro:
267. But whoever puts aside both merit & evil and, living the chaste life, judiciously goes through the world: he's called a monk. (Dịch: Bất kỳ ai vượt qua thiện ác, sống được đời thanh tịnh, cẩn trọng vượt qua thế giới này: vị đó là một nhà sư.)

Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
267. Whoever here (in the Dispensation) lives a holy life, transcending both merit and demerit, and walks with understanding in this world — he is truly called a monk. (Dịch: Bất kỳ ai nơi đây [trong giáo đoàn] sống đời thánh hạnh, vượt qua cả thiện và ác, và đi với hiểu biết trong thế giới này -- vị đó chân thực là một nhà sư.)

Đoạn 412
Bản dịch HT Thích Thiện Siêu:
412. Nếu ở thế gian này không chấp trước thiện và ác, thanh tịnh không ưu lo, đó gọi là Bà la môn.

412. Người siêu việt thiện ác,
Dứt phiền não buộc ràng,
Thanh tịnh sống thênh thang,
Bà la môn ta gọi.

Bản dịch HT Thích Minh Châu:
412. Người sống ở đời này
Không nhiễm cả thiện ác,
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi Bà-la-môn.

Bản dịch Thanissaro:
412. He has gone beyond attachment here, for both merit & evil — sorrowless, dustless, & pure: he's what I call a brahman. (Dịch: Người đã vượt qua mọi dính mắc nơi đây, xả ly cả thiện ác – không buồn phiền, không vương bụi & giữ trong sạch: Ta gọi đó là một Bà La Môn.)

Bản dịch Acharya Buddharakkhita:
412. He who in this world has transcended the ties of both merit and demerit, who is sorrowless, stainless and pure — him do I call a holy man. (Dịch: Người nào trong cõi này đã vượt qua cả thiện và ác, người không buồn, vô nhiễm, và thanh tịnh – Ta gọi đó là một thánh nhân.)

Ngôn ngữ vượt qua thiện ác nêu trên của Kinh Pháp Cú, sau này được giữ làm pháp an tâm của Tổ Sư Thiền, trong đó Lục Tổ Huệ Năng nói cụ thể trong Pháp Bảo Đàn Kinh -- bản Việt dịch của Minh Trực Thiền Sư, nơi phẩm Định Huệ sẽ trích như sau.

Nhưng thế nào là pháp của Lục Tổ Huệ Năng:

“...Chư Thiện tri thức, pháp môn của ta đây từ trên truyền xuống, trước hết lập Không Niệm (Vô Niệm) làm tông, Không Tướng (Vô Tướng) làm thể, Không Trụ (Vô Trụ) làm gốc. Không niệm nghĩa là trong khi niệm, lòng không động niệm. Không tướng nghĩa là đối với sắc tướng, lòng lìa sắc tướng. Không trụ có nghĩa là đối với các điều lành dữ, tốt xấu ở thế gian, cùng với kẻ thù, người thân, đối với lúc nghe các lời xúc phạm, châm chích, khinh khi, tranh đấu, Bổn tánh con người xem cả thảy như không không, chẳng nghĩ đến việc đền ơn trả oán. Trong niệm niệm lòng không nghĩ đến các cảnh mình đã gặp trước. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm nối tiếp nhau chẳng dứt, thì gọi là bị buộc ràng. Đối với các pháp, niệm niệm lòng không trụ vào đâu thì khỏi bị buộc ràng. Ấy là lấy Không Trụ làm Gốc...”(hết trích)

Như thế, ở cái nhìn này, Pháp Bảo Đàn Kinh là một ấn bản mới của Kinh Pháp Cú, và lời Đức Phật dạy về pháp xả ly mọi thiện ác, lành dữ, tốt xấu, ân oán buộc ràng... đã được Ngài Huệ Năng diễn lại một cách sinh động.

GHI CHÚ LIÊN KẾT:

Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
Bản Việt dịch của HT Thích Thiện Siêu và bản Anh dịch của Đại sư Narada:
/D_1-2_2-69_4-10977_5-50_6-1_17-35_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu:
/D_1-2_2-69_4-8448_5-50_6-1_17-34_14-1_15-1/
Bản Anh dịch của Thanissaro Bhikkhu:
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/dhp/dhp.intro.than.html
Bản Anh dịch của Acharya Buddharakkhita:
http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/dhp/dhp.intro.budd.html
Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Định Huệ:
/D_1-2_2-58_4-648_5-50_6-2_17-88_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
http://old.thuvienhoasen.org/kinhphapbaodan-minhtruc-04.htm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 9059)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
19/10/2010(Xem: 3729)
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát
18/10/2010(Xem: 5450)
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tùy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
16/10/2010(Xem: 4637)
Sự chia rẽ giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa trầm trọng ở mức độ nào? Sao bên nào cũng tự nhận là đi đúng đường và cao siêu hơn? Và tại sao Phật từng nói trong Kinh Pháp Hoa, Đại Thừa là hạt giống rắn chắc, khác với Tiểu Thừa là hàng thấp thỏi, trình độ kém, như vậy Phật đã xếp hạng giữa hai phái, vậy mà Tiểu Thừa vẫn tự nhận là Nguyên Thuỷ đúng lời Phật dạy
12/10/2010(Xem: 4213)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
12/10/2010(Xem: 6584)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Động đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
12/10/2010(Xem: 7555)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
12/10/2010(Xem: 6878)
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách.
10/10/2010(Xem: 7110)
Quyển sách này trích dịch từ “Lai Quả Thiền Sư Ngữ Lục”. Ngài Lai Quả 24 tuổi xuất gia, 28 tuổi kiến tánh, tịch năm 1953 thọ 73 tuổi. Ngài trụ trì chùa Cao Mân hơn 30 năm, chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, phàm có gì chướng ngại sự tham thiền, ngài đều bãi bỏ.
08/10/2010(Xem: 12310)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567