Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại cương về Thiền tông

04/05/201717:08(Xem: 4865)
Đại cương về Thiền tông



ducphatthichca
Đại cương về Thiền tông


Từ Thiền (Zen) bắt nguồn từ tiếng Phạn "dhyana", âm qua tiếng Tàu thành "Ch'an", rồi âm qua tiếng Nhật thành "Zen", người Việt đọc là Thiền.

 

1) Đại cương

 

 

Thiền là một trường phái Đại thừa thành lập bởi đại sư Ấn-độ Bồ-đề Đạt-ma (Tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn-độ) tại Trung quốc vào thế kỉ thứ Sáu. Thiền là tông phái có ảnh hưởng hết sức sâu rộng tại Đông Á.

 

Thiền tông chủ trương sự giác ngộ không thể đạt được qua sự học tập kinh điển. mà chỉ có thể đạt được với sự nhận thức trực tiếp bản tâm qua sự thực hành thiền định. Ngài Bồ-đề Đạt ma được xem là Sơ tổ của Thiền tông Trung quốc. Quyển "Luận về Nhận thức Thật tánh của Tâm", được cho là tác phẩm của Ngài nhưng có lẽ là do các đồ đệ về sau, diễn tả Thiền như sau: "Truyền ngoài kinh điển, không qua văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy được bản tánh và (đắc đạo) thành Phật".

 

Theo Thiền tông, sự giác ngộ tối thượng được truyền từ tâm sang tâm, và đức Phật Thích-ca được xem là đã trực tiếp truyền sự giác ngộ của Ngài cho đại đệ tử Đại Ca-diếp. Dòng Thiền sau đó được truyền cho Ngài A-nan và qua tất cả 28 đời Tổ Thiền Ấn-độ. cho đến khi Tổ thứ 28 là Bồ-đề Đạt-ma đem truyền thống vô ngôn nầy sang Trung quốc và thành lập Thiền tông tại đây. Sau đó, truyền thống Thiền được truyền cho Nhị Tổ Huệ Khả, Tam Tổ Tăng-xán, Tứ Tổ Đạo Tín, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và Lục Tổ Huệ Năng (638-713). Đến đời Lục Tổ thì có sự thay đổi quan trọng: lệ truyền Y bát bị bãi bỏ và truyền thống Thiền phân thành hai nhánh: Thiền Tổ Sư (Đốn Ngộ) do ngài Huệ Năng thống lãnh ở miền Nam và Như Lai Thiền (Tiệm Ngộ) do ngài Thần Tú thống lãnh ở miền Bắc.

 

Như Lai Thiền là lối Thiền cổ điển theo kinh sách, còn gọi là Bắc tông, sau đó nhanh chóng suy tàn - trong khi Thiền Nam Tông đào tạo được nhiều đệ tử xuất sắc và trở thành Thiền Trung quốc. Thiền tông Trung quốc sau đó lại phân ra thành Bảy nhánh Thiền, trong đó Thiền Lâm Tế (Lin-Chi hay Rinzai) và Thiền Tào Động (T'sao-tung hay Soto) là hai nhánh phổ thông nhất và vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

 

Ở Nhật bản, Thiền được thành lập trong thời kì đầu của triều đại Liêm-thương (Jap: Kamakura) khi ngài Minh-Am Vinh-Tây (Jap: Eisai) sang Trung quốc đời Tống học tập và đem Thiền Lâm Tế (Rinzai) về Nhật. Sau đó là ngài Đạo Nguyên cũng sang Trung quốc đời Tống và đem về Thiền Tào Động (Soto). Trong hai thời kì Kamakura và Muromachi (1336-1573) giáo pháp Thiền đươc kết hợp với phong trào Busisdo (Võ sĩ đạo) và rất được hưng thịnh. Năm 1654, Thiền sư Trung quốc Ẩn Nguyên Long Kì (Chin: Yin-Yuan) thời nhà Minh đã sang Nhật bản và sau đó thành lập Hoàng Bá tông (Obaku sect) kết hợp thực hành Thiền và Tịnh độ.

 

Các nhà phê bình có khuynh hướng gọi Thiền là vô lí, lộn xộn và nằm ngoài lí luận thông thường. Tuy nhiên, Thiền không nhượng bộ và phản bác rằng cái gọi là cách nhìn sự vật theo đường lối thông thường không phải là tối hậu - và lí do chúng ta không thể thấu đáo chân lí là vì chúng ta bám níu rất vô lí vào cái gọi là nhận thức hợp lí về sự vật. Nhưng nếu chúng ta muốn đi sâu vào sự thật của đời sống, chúng ta phải vất bỏ lề lối suy luận rất thân thương của chúng ta, và chấp nhận cách nhìn mới từ đó chúng ta có thể thoát khỏi sự độc tài của lí luận và lối phán đoán một chiều thường ngày...Đây là bởi vì Thiền đã đi đến kết luận là cách lí luận hợp lí không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tâm linh sâu kín nhất của chúng ta.

 

Có người gợi ý là Thiền đại diện cho một sự phát triển hoàn toàn mới mẻ, đến mức nó không còn là Phật giáo nữa. Tuy nhiên ý tưởng nầy là quá đáng.Thật ra không có điều gì trong Thiền mà không có tương đương trong thiền Ấn-độ. Sự khác biệt là ở phương cách chớ không phải nội dung.Thiền áp dụng phương cách diễn tả không qui ước và không bình thường. Đạo giáo là thí dụ rất quan trọng ở đây, nhứt là về truyền thống đơn giản và rất tự nhiên của nó.

 

Về Thiền tông, không ai có thể chối cãi sự đóng góp lớn lao của nó, đã giúp cho hàng ngàn người đi đến trực ngộ bản tâm. Thiền là Không trong hành động, đó là Bát nhã Ba-la-mật-đa sống thực. Khó có thể tìm được từ nào có thể tán dương đúng mức Thiền  Càng học tập và càng thực hành chánh pháp, ta sẽ càng trân quí và hân mộ Thiền. Tuy nhiên, không có sự hướng dẫn và chuẩn bị thích đáng, Thiền cũng có thể trở thành nguy hiểm và vô bổ. Nếu nhận lầm kinh nghiệm biểu hiện là kinh nghiệm đắc ngộ thật sự, người tu có thể trở thành tự cao quá lố. Thiền cũng có thể dẫn tới thái độ bất cần và cuối cùng làm cho hành giả mất hết căn bản để thực hành Phật pháp.

 

Đa số các Đại sư thời xưa , gồm các vị như Đạo Nguyên, Sơ Tổ của phá Thiền Tào Động Nhật bản, đều cho rằng chỉ có tăng ni mới có thể đắc ngộ qua pháp môn Thiền.

 

2) Cách thực hành chánh

 

Hai cách thực hành chánh của Thiền là Thiền Tọa (Jap: Zazen) và Quán Công Án.

 

Phương pháp ngồi thiền được thực hành phổ quát ở Ấn-độ thời cổ và được đem vào Phật giáo do đức Phật Thích-ca, khi Ngài ngồi thiền và đắc đạo dưới cội Bồ-đề. Phương pháp nầy được đem vào Trung quốc, và được Thiên Thai tông giảng dạy như là một phần của một hệ thống tổng hợp các phương pháp nhằm chứng ngộ thật tánh của bản tâm. Thiền tông Nhật bản coi ngồi thiền là rất quan trọng.

 

Ngồi thiền phải tréo chân, trong khi ngồi thiền hành giả có thể định tâm hay không định tâm trên một đối tượng nào đó, tùy theo trường phái.

 

Cách ngồi đúng để Tọa thiền là ngồi kiểu Hoa sen (hay kiết-già), với hai lòng bàn chân lật ngược và đặt lên hai vế đối diện. Trong các tu viện Thiền Công Án thì đề tài thiền định thường là một công án do vị Thiền sư trao cho mỗi thiền sinh.

 

Một trong các ưu điểm lớn nhứt của cách ngồi kiết-già hay bán-già là khi hai bàn tay được đặt lên hai lòng bàn chân - thì nhịp tim, huyết áp, sự chuyển hoá năng lượng và các hoạt động thiết yếu của cơ thể đều ở tình trạng yên tĩnh nhất. Tuy nhiên ta cần ghi nhận là, mặc dầu các cơ năng sinh lí được yên tĩnh, hành giả Thiền không chìm vào tình trạng hôn muội, vô cảm đối với thế giới chung quanh. Thật ra điện não đồ EEG của người đang ngồi Thiền chứng tỏ hành giả đều có phản ứng với mỗi lần kích thích lập lại, trong khi người bình thường mất hẳn phản ứng sau vài lần lập lại kích thích. Hơn nữa, trong khi phản ứng xảy ra mỗi lần có sự kích thich, ở người ngồi Thiền chúng biến mất rất nhanh sau đó. Điều nầy chứng tỏ hành giả ngồi Thiền (đúng cách) hoàn toàn có ý thức về những gì đang xảy ra, nhưng không dính mắc vào ý thức đó. Các điện não đồ của hành giả Thiền tương phản với điện não đồ của các hành giả thực hành pháp khác. Thí dụ như trong cách ngồi thiền Yoga, hành giả cắt đứt ảnh hưởng của thế giới chung quanh và hoàn toàn không có phản ứng với các kích thích.

 

Phái Thiền Lâm Tế dùng công án (các câu hỏỉ bế tắc để kích hoạt tâm thức ra khỏi trạng thái bình thường, nhằm đi vào ý thức tức thời và đột ngột về chân lí). Phái Tào Động nhấn mạnh sự Tiệm ngộ, kết hợp nhiều phương pháp kể cả công án - và trông cậy chánh yếu vào sự soi sáng tĩnh lặng của Tọa thiền, và kết thúc với sự thực hiện hợp nhất của bản tâm với chân lí.

 

Thiền Lâm Tế tìm sự đắc ngộ tức thời, trong khi Thiền Tào Động dạy hình thức ngồi thiền trong đó sự đắc ngộ từ từ đến với hành giả.

 

Thời Lục Tổ Huệ Năng (thế kỉ 7) có hai nhánh thiền là Nam tông (Tồ sư Thiền) và Bắc tông (Như Lai thiền). Nhưng hiện nay nhánh Thiền Tào Động gần như không còn, và Thiền Lâm Tế đại diện cho Thiền tông. Thiền Tổ Sư ngày nay đồng nghĩa với Thiền tông nói chung.

 

 

('Zen school', Seeker's Glossary of Buddhism, p. 559-563, Thích Phước Thiệt dịch)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/09/2012(Xem: 9553)
Phật tính [1] có thể là bản chất trống rỗng của tâm thức, mà trong trường hợp nào nó không là một thức. Nó cũng liên hệ đến tâm tịnh quang nguyên sơ là điều liên hệ hơn đến giáo huấn mật thừa tantra.
24/08/2012(Xem: 4295)
Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen Zenji, hay Eihei Dogen (1200-1253)) là một đại thiền sư thời cổ, và được nhiều người xem như một vị thiền sư vĩ đại nhất. Phật giáo đồ Nhật Bản trong tất cả mọi tông phái đều kính ngưỡng Đạo Nguyên như một vị bồ tát. Ngài là người đầu tiên đã đem dòng thiền Tào Động đến Nhật Bản. Sau khi học đạo với các vị thầy ở Nhật, Đạo Nguyên qua Trung Hoa tu học. Ngài đại ngộ ngay khi sư phụ Trung Hoa của ngài là Ju Ching nói phải “buông hết cả thân lẫn tâm”. Sau đó ngài đã đến trình kiến giải và được sư phụ ấn chứng. Lòng đầy tri ân, Đạo Nguyên quỳ sụp xuống đảnh lễ thầy. Ju Ching nói, “Buông luôn cả cái buông!” “Hiện thành công án” (Genjokoan) là một chương nổi tiếng trong quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” (Shobogenzo), nói đến sự liên hệ của tu thiền và giác ngộ. Đây là một tuyệt tác vô song, với những lời lẽ thâm sâu bàng bạc ý vị thơ, biểu lộ tri kiến của một bậc giác ngộ đã vượt ngoài đối đãi.
07/07/2012(Xem: 13287)
Trong mỗi buổi lễ hàng ngày, các thiền viện thuộc tông Tào Động (Sōtō Zen) Nhật Bản đều có tụng bài Sandōkai, như vậy cho thấy rõ tầm quan trọng của bài tụng này trong tông phái Tào Động. Nhiều thiền sư Nhật đã giảng và viết về bài đó một cách kỹ lưỡng để các thiền giả hiểu rõ ý nghĩa.
06/07/2012(Xem: 5033)
Bắt đầu từ ngày mai, học viện chúng ta có thể nói hoạt động mỗi năm một lần, kỷ niệm thư viện Hoa Tạng, cố viện trưởng cư sĩ Hàn Anh vãng sanh năm thứ tám. Mỗi năm vào ngày này, chúng ta đều có tổ chức nghi thức truy điệu.
06/07/2012(Xem: 7515)
Trước tiên xin cảm ơn Ngài vô cùng vì đã nói chuyện với chúng tôi sáng nay. Thưa Đức Thánh Thiện, Ngài vừa nói chuyện với sinh viên ở San Diego về 'lòng từ bi không biên giới', bây giờ tôi muốn hỏi Ngài trước hết về 'lòng từ bi trong biên giới'. Ngài nghĩ Hoa Kỳ có phải là một quốc gia từ bi không?
24/06/2012(Xem: 6875)
Đây là nhắc nhở cho tất cả về ý nghĩa "Đưa Tâm Về Nhà". Bây giờ mình phải ngược dòng lưu chuyển để đưa tâm về nhà. Như đã nói, hiện tại mình đang ở đây nhưng tâm mình thì đang lang thang ở quê người, đó gọi là xa quê, xa nhà, là mất gốc. Lang thang đây là lang thang ở trong các trần, đuổi theo các duyên, nó buông cái này, bắt cái kia hoài không chịu dừng. Chính đó là tâm sinh tử, là tâm biến động. Do vậy mà trôi theo dòng luân chuyển sinh tử luân hồi. Vua Trần Thái Tông tuy là vua nhưng ông cũng tu thiền, sáng tỏ được tâm nên trong bài kệ "Núi Thứ Nhất", vua nói rằng:
20/06/2012(Xem: 4738)
Như các bạn đều biết, chuyến đi mới đây của tôi tới Ladakh đã phải rút ngắn lại vì sức khỏe của tôi không được tốt. Tôi đã phải hủy bỏ chương trình ở Nyoma vào phút cuối, song các bạn hữu và đạo sinh của tôi đã tỏ ra vô cùng thông cảm, họ thường xuyên thỉnh cầu tôi phải nghỉ ngơi nhiều hơn và quay lại đây khi nào sức khỏe của tôi trở nên tốt hơn. Đôi khi, suy xét về sự việc này một cách khách quan, chẳng ai trong số chúng ta có thể trốn tránh được nghiệp quả. Chúng ta có thể làm điều gì đó để giảm bớt nghiệp quả, song trốn tránh hoàn toàn là điều không thể.
19/06/2012(Xem: 8733)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
18/06/2012(Xem: 12351)
Từ thời Phật giáo Nguyên Thủy đến Phật giáo Phát Triển cho tới ngày nay, đạo Phật luôn lấy Tâm làm gốc mà tu hành. Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánh là giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567