Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giữ tâm trạng cân bằng

22/04/201319:59(Xem: 5215)
Giữ tâm trạng cân bằng
thientoatruclamGiữ tâm trạng cân bằng
Giáo sư Minh Chi
Học viện Phật giáo VIệt Nam

Bí mật của hành thiền tiến bộ và thành công là luôn giữ cho được tâm trạng cân bằng và thoải mái, không căng thẳng mà cũng không căng thẳng. Kinh 42 Chương kể chuyện tăng sĩ Sona, khi hành thieenfkhoong làm sao giữ được tâm trạng cân bằng. Khi thì đầu óc căng thẳng quasinh ra đau đầu, khi thì buông lỏng quá sinh ra buồng ngủ. Không biết làm sao được, Sona đến gặp Phật, Phật hỏi:

    • Có phải trước đây, khi chưa xuất gia người làm thợ đàn, có phải không?
    • Thưa phải, bạch Thế Tôn-Sona trả lời.
    • Nếu dây đàn căng quá thì thế nào? Phật hỏi.
    • Bạch Thế Tôn, không thanh tiếng.
    • Nếu dây chùng quá thì thế nào? Phật tiếp tục hỏi.
    • Cũng không thanh tiếng, bạch Thế Tôn. Sona trả lời.

Phật bèn giảng giải:

Tu hành cũng như vậy đó, tích cực thái quá tới mức căng thẳng cũng không được, mà buông lỏng lười biếng cũng không được. Phải biết giữ tâm trạng cân bằng mới tiến bộ.

Thiền sư Tây Tạng Ma-chik-lap-Dron nhắn nhủ học trò mình:"Tinh tấn, tinh tấn nhưng vẫn thư giãn, thư giãn".

(Xem cuốn" The Tibetan Book of Living and Dying" Soyal Rinpoche, trang 73) (Cuốn sách Tây Tạng về Sống và Chết-bản Anh)

Câu trên của thiền sư Tây Tạng cũng tương tự về ý tứ như tôn chỉ tu thiền của thiền sư Việt Nam Hương Hải (1628-1715):

"Tỉnh tỉnh tịch tịch thị,
Tỉnh tỉnh loạn tưởng phi.
Tịch tịch tỉnh tỉnh thị,
Tịch tịch vô ký phi"

Tỉnh tỉnh là tỉnh táo hay tỉnh giác. Nhưng nếu chỉ một chiều tỉnh giác thì tạp niệm sẽ dấy lên loạn xạ. Tu thiền như vậy là sai. Phải vừa tỉnh táo, vừa tịch lặng mới đúng. Do đó mà thiến sư Hương có hai câu đầu:

Tỉnh táo mà tịch lặng là phải,
Tỉnh táo mà loạn tưởng là sai.

Thế nhưng, nếu cứ tịch lặng một chiều mà mất tỉnh táo sẽ sinh ra buồn ngủ, như vậy cũng sai, mà phải vừa tịch lặng, vừa tỉnh giác mới là đúng. Do đó mà hai câu cuối cùng của bài kệ của thiền sư Hương Hải là:

Lặng lẽ mà tỉnh táo là phải,
Lặng lẽ mà không biết gì hết là sai.

Vô ký ở đây có nghĩa là mê mờ, không phân biệt được ngoại cảnh. Sách Phật thường dùng hai từ hôn trầm, thuỵ miên.

Nói tóm lại, nếu chúng ta hiêu hành thiền là một cái gì đặc biệt, chỉ có thể thành tựu trong hoàn cảnh đặc biệt (thí dụ sống cô độc trong rừng sâu v.v…) với tư thế đặc biệt (thí dụ ngồi tư thế hoa sen), mà là cả một nếp sống thoải mái, tự do tự tại, tỉnh giác và năng động, thì chúng ta mới hiều vì sao đức Phật cũng như các thiền sư lớn sau này đều nhấn mạnh phải giữ cho luôn luôn có được tâm thoải mái, tâm nhẹ nhàng, hoàn toàn không có dấu vết ức chế nào.

Vui thích hay ghét bỏ, vơ vào hay gạt ra là biều hiện của tình trạng ức chế trong tâm, nhưng thuộc hai cực khác nhau.

Phải là tâm trạng như trong kinh 42 Chương nói:"Nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu". Nghĩa là trong tâm không thấy được thêm gì, đối với ngoài cũng không cầu mong gì.

Hay là hai câu thô chữ Hán của Trần Nhân Tông, kết thúc bài phú nôm "Cư Trần Lạc Đạo":

"Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên".

Dịch:

Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền…

---o0o---

Chân thành cảm ơn Giáo sư Minh Chi đã gởi tặng bài viết này
( Trang nhà Quảng Đức )


---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 9077)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
19/10/2010(Xem: 3742)
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát
18/10/2010(Xem: 5460)
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tùy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
16/10/2010(Xem: 4642)
Sự chia rẽ giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa trầm trọng ở mức độ nào? Sao bên nào cũng tự nhận là đi đúng đường và cao siêu hơn? Và tại sao Phật từng nói trong Kinh Pháp Hoa, Đại Thừa là hạt giống rắn chắc, khác với Tiểu Thừa là hàng thấp thỏi, trình độ kém, như vậy Phật đã xếp hạng giữa hai phái, vậy mà Tiểu Thừa vẫn tự nhận là Nguyên Thuỷ đúng lời Phật dạy
12/10/2010(Xem: 4222)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
12/10/2010(Xem: 6596)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Động đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
12/10/2010(Xem: 7567)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
12/10/2010(Xem: 6881)
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách.
10/10/2010(Xem: 7117)
Quyển sách này trích dịch từ “Lai Quả Thiền Sư Ngữ Lục”. Ngài Lai Quả 24 tuổi xuất gia, 28 tuổi kiến tánh, tịch năm 1953 thọ 73 tuổi. Ngài trụ trì chùa Cao Mân hơn 30 năm, chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, phàm có gì chướng ngại sự tham thiền, ngài đều bãi bỏ.
08/10/2010(Xem: 12347)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567