Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kỹ thuật Thiền Vipassana.

22/04/201319:59(Xem: 4786)
Kỹ thuật Thiền Vipassana.

KỸ THUẬT THIỀN
VIPASSANÀ

H.T

---o0o---

Thiền sư Dhammarakkhita là một vị cao tăng tinh thông Tam tạng, nhưng Ngài lại ưa thích pháp hành nên thường đi một mình vào rừng hành đạo. Ngài được các vị Thiền sư tiền bối khen ngợi là người giàu ý chí, kiên nghị, dũng cảm và có khả năng về cả pháp học lẫn pháp hành. Ngài được Phật tử Thái Lan mời làm viện chủ một thiền viện nổi tiếng theo truyền thống của Thiền sư Achar Nep lỗi lạc, nhưng thỉnh thoảng Ngài chỉ đến dạy Thiền rồi một mình thong dong tự tại, như cánh hạc ngàn. Đặc biệt là cuối năm nay Thiền sư Rhippa Panno ở chùa Jetavanavihàra Washington D.C đến hướng dẫn chúng tôi một khoá Thiền Vipassanà trong vòng một tuần.

Ngài Panno xuất thân là Tiến sĩ Triết học từ trung tâm Phật học Đại học Nalanda Ấn Độ. Sau đó Ngài đến Miến Điện hành thiền với một vị danh sư là Ngài Mahàsi Sayadaw, và chính tại đây Ngài đã đắc pháp. Ngài rất hiền lành đôn hậu, chỉ dạy tận tình. Đến với Ngài chúng tôi cảm nhận được một lòng từ ngọt dịu bao dung.

Nếu Thiền sư Dhammarakkhita thông minh, thích dí dỏm, hùng hồn thì Thiền sư Rhippa Panno lại từ tốn, nhu mì, dịu dàng, trầm tĩnh. Thiền sư cho biết trong các thiền viện ở Miến Điện, Thái Lan, thiền sinh hành thiền 20/24h, chỉ trừ lúc ngủ khoảng 4 tiếng đồng hồ, hay đôi khi một vài thiền sinh hành luôn không ngủ. Tuy vậy Ngài biết ở đây có chương trình sinh hoạt riêng, nên sau khi hội ý với thầy, Ngài quyết định cho hành 10 tiếng mỗi ngày theo cách hướng dẫn của Ngài, thì giờ còn lại tuỳ ý mỗi người.

Thiền sư Rhippa Panno chỉ cách hành thiền tại chỗ rồi từ từ hành tới đâu giảng dần tới đó. Cứ một tiếng ngồi thiền xen kẽ một tiếng kinh hành liên tục, trừ giờ ăn uống, ngủ nghỉ, tắm rửa, vệ sinh v.v… Trong những sinh hoạt này chỉ cần giữ chánh niệm tỉnh giác miên mật là được.

Dĩ nhiên trong lúc ngồi thiền và đi kinh hành cần phải giữ sự chú tâm trong chánh niệm tỉnh giác cao hơn để có thể soi chiếu minh bạch nhứng diễn biến tinh vi của đối tượng thiền quán, vì đó chính là tinh yếu của Thiền Vipassanà.

Một hôm tôi đang ngồi thiền, đến khoảng 45 phút tôi bắt đầu cảm thấy chân đau nhức khó chịu, cảm giác nhức nhối cứ tăng dần và đầu óc tôi bắt đầu căng thẳng vì tranh đấu chống lại sự đau nhức mà trước đây tôi chưa bao giờ biết đến.

Tôi đang phân vân không biết nên đổi oai nghi hay cứ ngồi mà chịu trận, và cứ thế sự căng thẳng dâng lên tột độ, hết chịu nổi rồi ! Bỗng nghe văng vẳng giọng nói của Thiền sư thật dịu dàng như chính Ngài đang chia sẽ với tôi cơn đau trầm trọng đó.

Ngài nói : “Các hành giả gắng giữ chánh niệm. Khi đau hãy sáng suốt trầm tĩnh ghi nhận trạng thái đau một cách trung thực, đừng sợ hãi, lo âu và chống lại. Cứ giao phó thân xác này cho cơn đau, đó là bố thí “Ba la mật”. Cứ ngồi yên đừng chìu theo thói quen dễ dãi của bản năng, đó là trì giới “Ba la mật”. Cứ duy trì đề mục thiền quán không xao lãng, đó là tinh tấn “Ba la mật”. Cứ thản nhiên chịu đựng cơn đau, đó là nhẫn nại “Ba la mật”. Cứ nhất tâm chuyên niệm, đó là ly dục “Ba la mật”. Cứ trả cơn đau về với bản chất đơn thuần của một cảm thọ trong tự tánh Paramattha của nó, đó là chơn thật “Ba la mật”. Cứ dũng mãnh quyết tâm, không chần chừ ngần ngại, đó là quyết định “Ba la mật”. Cứ rải tâm mát mẻ vô sân cho chính cơn đau, đó là tâm từ “Ba la mật”. Cứ để cơn đau đến đi tự nhiên, không giữ lại, không loại trừ, đó là tâm xả “Ba la mật”. Vậy nhờ cái đau mà Ba la mật được tròn đầy, thì chịu đựng cơn đau còn xứng đáng hơn là đắm chìm trong dục lạc”. Lời nói dịu dàng như một làng gió mát, đánh thức tôi về với thực tại, xoá mất lằn ranh của sự đấu tranh giữa năng và sở như một sự sống tròn đầy, thâm sâu và trọn vẹn. Ngay khi tôi đang tràn ngập trong sự hoan hỷ của một trạng thái an bình viên mãn như kẻ khát khô đang hân hoan thưởng thức một bát nước đầy, thì chợt nghe tiếng Ngài vọng lại nhẹ nhàng nhưng vô cùng sắc bén :

“Khi quán chiếu thân này, hơi thở vô hay ra cơ bụng phồng xẹp, đó chỉ là phong đại, tính chất lưu chuyển của sắc pháp mà thôi. Cảm giác cứng mềm trong sự tiếp xúc giữa chân và tay, giữa bàn toạ và chỗ ngồi v.v…đó chỉ là địa đại, tính chất thô trương của sắc pháp mà thôi. Cảm xúc nóng lạnh phát ra trong cơ thể, đó chỉ là hoả đại, tình chất thành thục của sắc pháp mà thôi. Và chúng ta có thể ngồi yên trong tư thế này mà không bị rời rã, chính là do thuỷ đại, tính chất liên kết các phần tử của sắc pháp mà thôi. Thân này chỉ là các đại hợp thành, vô thường trống không và chẳng thể tìm đâu ra các ngã”.

Tôi như người chợt tỉnh. Khi đau không thấy chỉ là một cảm thọ khổ đang sinh diệt trên thân mà lại thấy là “tôi đau”. Đến khi nhất tâm an lạc lại không thấy chỉ là một cảm thọ hỷ đang sinh diệt trên tâm, mà lại thấy là “tôi hoan hỷ”. Dù đã vượt qua ranh giới của năng sở để đạt đến trạng thái thân tâm nhất như, nhưng bản ngã, một ảo giác về sở đắc, vẫn còn nguyên vẹn. Cái mê lầm của tôi là ở chỗ đó. Tôi cúi đầu lạy tạ Thiền sư.

Một tiếng chuông vang lên báo hiệu giờ kinh hành đã đến. Tôi làm một vài động tác nhẹ nhàng chậm rãi rồi từ từ đứng dậy. Một giờ ngồi thiền đã qua. Tôi thường đi kinh hành trong rừng cây thoáng mát, và thú thật tôi thích đi kinh hành hơn ngồi thiền vì cái nạn đau chân như tôi vừa kể. Vừa đi chậm rãi thong thả vừa chú tâm vào những cử động toàn thân khi bước đi : chân giở lên, đưa tới, đạp xuống và cảm giác chạm đất dưới bàn chân dễ làm cho tôi lắng dịu. Nếu ngồi thiền dễ đau chân, dễ buồn ngủ hay dễ phóng tâm thì đi kinh hành làm tôi định tĩnh, sáng suốt dễ dàng hơn. Khi chánh niệm tỉnh giác trên những diễn biến của toàn thân, tôi dễ dàng thấy những cảm thọ phát sinh từ sự tiếp xúc của thân. Rồi trạng thái tâm phát sinh từ cảm thọ đó.

Nhờ đi kinh hành tôi dễ dàng phát hiện được sự tương quan nhân quả của ý muốn đi và hành động đi, của ý muốn đứng và hành động đứng lại - của ý muốn quay và hành động xoay người trên đường đi kinh hành mà bình thường tôi không thấy được. Tôi thường đi như một cái máy bị lôi cuốn về phía trước đến một đích mà ý muốn vô hình đã quy định. Đúng là mộng tử tuý sinh.

Tôi cũng thấy chỉ có “sắc” đi và “danh” nhận biết hay thúc đẩy hành động đó. Cái gọi là “con người tôi” chỉ là sự tương quan nhân quả của danh và sắc. Rồi vi tế hơn tôi bắt đầu thấy sự tập khởi của sắc uẩn qua sự tiếp xúc giữa nội căn và ngoại trần, sự tập khởi của thọ uẩn qua sắc, sự tập khởi của tưởng uẩn qua thọ, sự tập khởi của hành uẩn qua tưởng và sự tập khởi của thức uẩn qua hành. Đó cũng chỉ là sự tương quan nhân quả của danh sắc được nhìn một cách minh bạch hơn mà thôi. Không tìm thấy cái gì ngoài tính chất vô thường, trống không, vô ngã ! Cho đến lúc đó tôi mới hiểu thế nào là “chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Và cũng nhờ vậy tôi mới thấy ra Tứ diệu đế trong chính bài tập thiền quán này : Chiếu kiến chính là đạo đế, ngũ uẩn là tập đế, giai không là diệt đế, nhất thiết khổ ách là khổ đế. Đó là những sự thật mà mỗi người có thể thấy được khi thực hành Thiền Vipassanà, tức tuệ quán mà Tâm kinh gọi là “hành thâm Bát nhã ba la mật đa” vậy.

Cuối khoá thiền, trước khi Thiền sư từ giã, Ngài đã ngâm cho chúng tôi nghe bài Mettà Sutta (Từ Bi Kinh) và ba bài kệ nói về quán chiếu Bát nhã (Pannàya passati) với một giọng ngâm trầm ấm, nhẹ nhàng nhưng đã để lại trong tâm khảm mọi người một ấn tượng sâu lắng.

---o0o---

TÌM ĐÂU

Tìm bóng ta trong thân

Chỉ thấy toàn tứ đại

Tìm bóng ta trong tâm

Chẳng gì ngoài tâm sở

Biết tìm ta nơi đâu

Trong ngoài đều lặng lẽ

Bỗng thấy bên ngoài sân

Con vành khuyên thỏ thẻ.

L.V


---o0o---

(Trích trong Nguyệt San Giác Ngộ số 28 PL.2542)
Vi tính : Thích Đức Tuấn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3905)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8518)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11728)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12757)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12772)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4710)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4840)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5042)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7325)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567