Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những bài học về Thiền của Đức Phật

22/04/201319:52(Xem: 5861)
Những bài học về Thiền của Đức Phật

labode_3NHỮNG BÀI HỌC VỀ THIỀN CỦA ĐỨC PHẬT

Nguyên tác: 
Claudia Kalb
Việt dịch: Trần Như Mai

Vào tuổi 39, Janet Clarke khám phá rằng cô đã bị bướu cột sống khiến cô đau lưng triền miên. Các loại thuốc giảm đau cũng có giúp cô đôi chút, nhưng mãi cho đến khi cô tham dự một khóa Thiền tập ở Lytham, cô mới khám phá ra một vũ khí lợi hại bên trong cơ thể của mình : đó là tâm của cô. Bằng cách thực tập một phương pháp gọi là “ Giảm Căng Thẳng Bằng Phép Tỉnh Thức”( Mindfulness-Based Stress Reduction – MBSR ), Clarke đã học cách để chấp nhận cơn đau thay vì chống đối nó. Cô nói “Đây là phương pháp dạy cho bạn cách tiếp cận với cơ thể chứ không phải với đầu óc của bạn. Phương pháp Tỉnh Thức đã cho bạn một điều mà thuốc giảm đau không thể có được – đó là thái độ sống thế nào cho đựơc an lạc”.

Bắt nguồn từ những truyền thống Phật giáo cổ đại, phương pháp Tỉnh Thức giờ đây đã có chỗ đứng như một loại thuốc giải độc chữa được nhiều thứ bệnh, từ căng thẳng thần kinh loại A (mãn tính) đến bệnh trầm cảm. Tại Trung Tâm Thực Tập Phép Tỉnh Thức trong Y Khoa, Chăm sóc Y tế và Xã hội ở Đại học Massachusetts, nơi mà Giáo sư Jon- Kabat-Zinn đã phát triển phương pháp “ Giảm Căng Thẳng Bằng Phép Tỉnh Thức”, có 15,000 người tham gia khoá Thiền tập trong 8 tuần, và hằng trăm người khác đã ký tên tham dự tại các trung tâm y tế khắp Hoa Kỳ. Bây giờ, các khoa học gia đang sử dụng kỹ thuật hiện đại nhất để chụp hình não bộ và thử máu để nghiên cứu kết quả sinh học của Thiền định. Cuộc nghiên cứu đang thu hút sự chú ý ở các cấp cao nhất : Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng quan tâm đến nỗi Ngài đã tham gia lực lượng nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Tâm Thức và Đời Sống ở Boulder, Colorado.Viện này đang bảo trợ công trình nghiên cứu về Thiền và Tâm. Tháng tới, các khoa học gia sẽ gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Dharamsala, Ấn Độ, để tham dự một hội nghi lớn về “ Tính nhu nhuyến của thần kinh não bộ”. Nhà tâm lý học Ruth Baer thuộc Viện Đại học Kenntucky nói “ Người ta thường nghĩ rằng đây là một việc rất thiếu thực tế và huyễn hoặc. Bây giờ họ lại bảo, ‘Này, chúng ta nên bắt đầu chú tâm đi nhé.’ ”

Chú tâm là cốt lõi của phép Tỉnh Thức. Trong 45 phút Thiền tập, các tham dự viên đã quan sát những ý niệm lăng xăng của tâm và các cảm giác của cơ thể. Nguyên tắc chỉ đạo là phải hiện hữu trong từng giây phút, phải nhận biết những gì đang xảy ra nhưng không phân tích hay phán đoán. Điều này không dễ. Các Phật tử thường gọi cái tâm lăng xăng ấy là ‘tâm vượn”, cái tâm vượn này đã miên man dẫn dắt ý niệm của ta đi từ những nuối tiếc quá khứ đến những lo âu về tương lai, khiến ta còn rất ít thời giờ cho phút giây hiện tại ở nơi này. Những nỗ lực Thiền tập lúc đầu có thể làm ta thất vọng (“Tôi sẽ không bao giờ Thiền dược”), thiếu kiên nhẫn (“Bao giờ thì xong đây ?”), và ngay cả những khởi niệm tầm thường như (‘Tôi sẽ làm món gì cho bữa ăn tối ?). Tuy nhiên, mục đích không phải là đạt đến Niết Bàn, nhưng là để quan sát những ý niệm hổn tạp ấy bằng thái độ từ bi, chấp nhận chúng như những cái thoáng qua, “ giống như bọt nước trong bình, hoặc những áng mây báo hiệu thời tiết trên bầu trời”, giáo sư Kabat-Zinn đã nói như vậy.

Trọng tâm của phương pháp Tỉnh Thức là thực hành Thiền định mỗi ngày, nhưng chủ đích là làm cho Thiền tập trở thành một lối sống. Ở Đại học Stanford, Giáo sư Philippe Goldin khuyến khích các bệnh nhân đang chiến đấu với căn bệnh “ lo âu về xã hội ” nên có “những giây phút ngừng suy nghĩ đầy ý nghĩa” (Thiền) trong suốt ngày như là một cách theo dõi và kiểm soát nỗi sợ hãi và hoài nghi của chính họ. Kiểm soát nội tâm có thể là một phương pháp rất hữu hiệu trong việc đối trị mọi căn bệnh mãn tính. Trong một cuộc nghiên cứu thử nghiệm 18 người phụ nữ mập phì, vị Giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Sức Khỏe, Tôn Giáo và Tâm Linh , giáo sư Jean Kristeller đã tìm thấy rằng phương pháp Tỉnh Thức, được tăng cường bằng các phương pháp ăn trong chánh niệm ( như là chậm rãi thưởng thức hương vị của miếng phô-mai ), đã giúp các bệnh nhân giảm thiểu việc ăn uống quá độ của họ từ trung bình 4 lần một tuần xuống còn 1 lần rưỡi một tuần.

Phương pháp Tỉnh Thức giúp bạn thoát khỏi khuôn sáo của nếp sống cũ. Bạn không còn chiến đấu với tâm của mình như một kẻ đang đấu võ trên võ đài – mà bạn đóng vai khán giả ngồi trên hàng ghế để quan sát tâm của bạn một cách thích thú. Sự tách rời này không làm bạn trở nên thụ động nhưng sẽ đưa bạn đến những cách suy nghĩ mới. Điều này đặc biệt hữu ích đối với bệnh trầm cảm, là chứng bệnh đã dày vò bệnh nhân bằng những suy tưởng khắc nghiệt. Giáo sư tâm thần học của Đại học Toronto là Sindel Segal, cùng với các đồng nghiệp người Anh là John Teasdale ở Đại học Oxford và Mark Williams ở Đại học Cambridge, đã kết hợp phương pháp Tỉnh Thức với “ nhận thức ứng xử trị liệu pháp” theo truyền thống và dạy cho bệnh nhân quan sát nỗi buồn hay đau khổ của mình mà không phê phán. Trong một cuộc nghiên cứu các bệnh nhân đã phục hồi sau một giai đoạn bị trầm cảm, Segal và các đồng nghiệp tìm thấy rằng 66% những người có thực hành Thiền tập vẫn giữ được trạng thái tâm thần ổn định trên một năm (không bị tái phát bệnh cũ), so sánh với 34% đối với nhóm không thực tập phép Tỉnh Thức.

Ảnh hưởng sinh học của phép Tỉnh Thức là phạm vi kế tiếp trong nghiên cứu khoa học. Trong một công trình nghiên cứu đã được xuất bản nhiều năm trước, giáo sư Kabat-Zinn tìm thấy rằng khi các bệnh nhân mắc bệnh vẩy cá nghe băng nhạc Thiền trong lúc được chữa trị bằng tia cực tím, họ đã lành bệnh nhanh hơn gấp 4 lần nhóm bệnh nhân không được nghe nhạc Thiền. Gần đây hơn, giáo sư Kabat-Zinn và nhà thần kinh học Richard Davidson của Viện Đại học Wisconsin tìm thấy rằng sau 8 tuần thực hành phương pháp Tỉnh Thức, một nhóm nhân viên ngành kỷ thuật vi sinh học đã chứng tỏ có sự gia tăng hoạt động của vỏ não trái phía trước – đây là vùng não bộ được liên kết với trạng thái tinh thần vui vẻ hạnh phúc - nhiều hơn những đồng nghiệp không thực tập Thiền. Những người có thùy não trái hoạt động nhiều nhất thì cũng gia tăng số lượng các kháng thể có sức chống trả mạnh nhất đối với với thuốc chích ngừa bệnh cúm.

Còn nhiều điều mới đang được khám phá. Giáo sư Goldin của Đại học Stanford đang sử dụng kỹ thuật hiện đại nhất để chụp hình não bộ để tìm xem có phải phương pháp Tỉnh Thức có ảnh hưởng đến những điểm kích động tình cảm không, ví dụ như là hạch amygdala nối với thùy não bên phải có liên hệ đến việc xử lý sự sợ hãi. Và tại Đại học Maryland, Bác sĩ Drian Berman đang nghiên cứu các mức độ sưng khớp của các bệnh nhân thấp khớp đang thực tập phép Tỉnh Thức. Một người trong số đó là cô Dalia Isicoff đã nói rằng “ Kết quả quá rõ ràng, tôi cảm thấy thân và tâm đều an lạc.”

Source: Buddha Lessons ( Newsweek International, October 4 / 2004 Issue )


---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 3834)
Tất cả chúng ta đều đồng ý là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy. Vậy sự gặp gỡ nhau như thế nào? Đây là mục tiêu chúng ta phải nghiên cứu. Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như dưới đây:
08/01/2011(Xem: 3933)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8574)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11787)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12782)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12815)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4736)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4865)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5059)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567