Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền định: dưỡng chất chuyển hóa tâm

22/04/201319:45(Xem: 5051)
Thiền định: dưỡng chất chuyển hóa tâm

lotus_4THIỀN ĐỊNH : DƯỠNG CHẤT CHUYỂN HÓA TÂM
( MIND - ALTERING SUSTENANCE)
Nguyên tác : Marc Kaufman
Việt dịch : Trần Như Mai

---o0o---

Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt động và hệ thống kinh mạch bên trong não bộ.

Cuộc nghiên cứu về não bộ đang bắt đầu đưa ra những bằng chứng cụ thể về những gì mà các hành giả Thiền Phật giáo đã xác nhận qua nhiều thế kỷ nay: kỷ luật tinh thần và Thiền tập có thể thay đổi cơ cấu hoạt động của não bộ và cho phép con người đạt được nhiều mức độ tỉnh giác khác nhau.

Theo truyền thống thì những trạng thái chuyển biến ấy đã được hiểu theo ngôn ngữ siêu việt như là một cái gì vượt ra ngoài thế giới đo lường vật lý và sự đánh giá khách quan. Nhưng, trong vài năm qua, các nhà nghiên cứu tại Viện Đại học Wisconsin, cùng làm việc với các vị sư Phật giáo Tây Tạng, đã có thể truyền đạt những kinh nghiệm tinh thần ấy thành ngôn ngữ khoa học về các làn sóng điện từ gamma tầng số cao và sự phối hợp đồng thời của não bộ. Và họ đã chỉ rõ thuỳ não trái phía trước đỉnh đầu, vùng ngay sau trán bên trái, là nơi mà hoạt động não bộ liên kết với Thiền định có cường độ cao đặc biệt.

Giáo sư Davidson nói: “Điều mà chúng tôi tìm thấy là các hành giả Thiền định thâm niên đã chứng tỏ hoạt động não bộ của họ đã đạt đến một tầm mức mà chúng tôi chưa hề thấy trước đây”. Ông là một nhà thần kinh học tại một phòng thí nghiệm mới trị giá 10 triệu đô-la của Viện Đại học, có tên là Phòng Thí Nghiệm W.M.Keck Chuyên Khoa Chụp Hình Chức Năng và Biểu Hiện của Não Bộ.

Ông nói :” Sự luyện tập tinh thần của các hành giả đã mang lại hiệu quả trên não bộ của họ cũng giống như sự tập luyện đánh “gôn” hay quần vợt sẽ nâng cao khả năng giao đấu của các cầu thủ. Điều này chứng tỏ rằng não bộ có thể được luyện tập và thay đổi về mặt sinh học theo những phương cách mà ít người có thể tưởng tượng ra”.

Các khoa học gia thường tin tưởng ngược lại - họ tin rằng sự liên hệ giữa các tế bào não đã được xác lập ngay từ thời thơ ấu và không thay đổi lúc trưởng thành. Nhưng nhận định đó đã chứng tỏ không còn đúng nữa trong thập kỷ vừa qua nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật chụp hình não bộ và các kỹ thuật khác. Các khoa học gia giờ đây đã đón nhận khái niệm về sự phát triển liên tục của não bộ và “tính nhu nhuyến của thần kinh não bộ ”.

Giáo sư Davidson nói rằng những kết quả mới nhất về nghiên cứu Thiền định được xuất bản vào tháng 11, trong tập “Những Bài Thuyết Trình Của Viện Hàn Lâm Khoa Học Quốc Gia ”, đã đưa khái niệm về “tính nhu nhuyến của thần kinh não bộ” tiến thêm một bước nữa bằng cách chứng tỏ rằng việc huấn luyện tâm thức qua Thiền tập

(và có thể những kiểu huấn luyện khác nữa) có thể tự nó thay đổi cơ cấu hoạt động và hệ thống kinh mạch bên trong não bộ.

Những khám phá mới này có lẽ là kết quả của một sự hợp tác lâu dài giữa Giáo sư Davidson và Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng, một hành giả Phật giáo nổi tiếng nhất thế giới hiện nay. Đầu tiên, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mời Giáo sư Davidson đến viếng thăm trú xứ của Ngài ở Dharamsala ở Ấn Độ vào năm 1992 sau khi Ngài biết được những công trình nghiên cứu mới mẻ của Giáo sư Davidson trong khoa thần kinh học về các tình cảm. Người Tây Tạng có truyền thống lâu đời về Thiền định chuyên sâu, và ngay từ đầu, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tỏ ra quan tâm đến việc cho phép Giáo sư Davidson dùng phương pháp khoa học đểkhám phá tâm thức của các vị sư đệ tử của Ngài đang lúc hành Thiền. Ba năm trước, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đến thăm phòng thí nghiệm của Giáo sư Davidson trong hai ngày.

Cuối cùng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã gởi tám trong số những vị đệ tử đạt đạo nhất của Ngài đến phòng Thí nghiệm của Giáo sư Davidson để họ được nối với máy điện não đồ và máy chụp hình não bộ. Các vị hành giả Thiền Phật giáo trong cuộc thí nghiệm này đã được huấn luyện theo truyền thống Thiền định Nyingmapa và Kagyupa vào khoảng 10,000 đến 50,000 giờ, trong thời gian từ 10 đến 40 năm. Một nhóm khác gồm 10 sinh viên thiện nguyện chưa hề có kinh nghiệm Thiền tập được chọn để so sánh kết quả cuộc thí nghiệm sau một tuần được huấn luyện hành Thiền.

Các vị sư và các thiện nguyện viên đều được gắn một mạng lưới gồm 256 điện cực và được yêu cầu hành Thiền trong những khoảng thời gian ngắn. Suy nghĩ và những hoạt động tinh thần khác được biết là sẽ làm cho dòng điện phát sinh ra những đột biến nhẹ nhưng có thể do lường được, khi những nhóm lớn các tế bào thần kinh truyền tải tín hiệu với nhau. Đó là những tín hiệu mà các điện cực sẽ nhận được.

Giáo sư Davidson đặc biệt quan tâm đến việc đo lường các làn sóng điện từ gamma, đó là những xung điện não bộ quan trọng nhất và có tầng số cao nhất.

Cả hai nhóm được yêu cầu hành Thiền đặc biệt hướng tâm về lòng từ bi vô điều kiện. Giáo lý đạo Phật mô tả trạng thái đó, và điều này cũng là trọng tâm giáo huấn của Đức Đạt Lai Lạt Ma, như là “ thái độ không ngăn ngại sẵn sàng có mặt để cứu độ chúng sinh”.Các nhà nghiên cứu chọn đối tượng chú tâm này vì nó không đòi hỏi tập trung tư tưởng vào những đối tượng, ký ức hay hình ảnh đặc biệt nào, thay vào đó hành giả tu dưỡng một trạng thái hiện sinh được chuyển hóa, đó là lòng từ bi.

Giáo sư Davidson nói kết quả cuộc nghiên cứu rõ ràng chứng tỏ Thiền tập đã kích hoạt tâm thức thuần thục của các vị sư theo những phương cách khác hẳn với các thiện nguyện viên. Điểm quan trọng nhất là các điện cực đã ghi nhận được sự kích hoạt rất tích cực của làn sóng điện từ gamma chuyển động rất nhanh và mạnh mẽ khác thường trong não bộ các vị sư, và tìm thấy các chuyển động của những làn sóng ấy qua não bộ được tổ chức và phối hợp tốt hơn nhiều so với các thiện nguyện viên.

Những thiện nguyện viên chứng tỏ có một sự gia tăng nhỏ trong hoạt động của làn sóng điện từ gamma lúc hành Thiền, nhưng một số vị sư lại có hoạt động của làn sóng điện từ gamma mạnh mẽ hơn bất cứ một người mạnh khỏe bình thường nào đã được ghi nhận từ trước đến nay.

Giáo sư Davidson nói :” Những vị sư hành Thiền thâm niên nhất đã có những làn sóng điện từ gamma đạt mức hoạt động cao nhất”.

“Sự đáp ứng theo liều lượng” này là điều mà các nhà nghiên cứu tìm kiếm để đánh giá nguyên nhân và kết quả - theo đó một liều lượng thuốc hay mức hoạt động cao hơn sẽ tạo được ảnh hưởng lớn hơn liều lượng ở mức độ thấp.

Trong các cuộc nghiên cứu trước đây, những hoạt động tinh thần như là sự tập trung vào một mục tiêu, ký ức, học tập hay ý thức thường liên kết với kiểu phối hợp hoạt động thần kinh não bộ được nâng cao như đã tìm thấy ở các vị sư. Những làn sóng điện từ gamma mạnh mẽ được tìm thấy ở các vị sư cũng liên hệ đến sự đan kết lại những kinh mạch khác hẳn nhau cũng như liên hệ đến hoạt động tinh thần tích cực hơn và sự tỉnh giác cao hơn.

Công trình nghiên cứu của Giáo sư Davidson cũng phù hợp với kết quả các công trình nghiên cứu của ông trước đây khi ông chỉ rõ thùy não trái phía trước đỉnh đầu là một khu vực của não bộ liên kết với trạng thái vui vẻ và các tư tưởng tình cảm tích cực. Sử dụng máy chụp hình cọng hưởng từ tính để chụp hình não bộ các vị sư đang hành Thiền, Giáo sư Davidson đã tìm thấy hoạt động não bộ của các vị sư - được đo lường bằng máy điện não đồ - đặc biệt rất cao ở vùng này.

Từ công trình nghiên cứu này, Giáo sư Davidson kết luận rằng Thiền tập không những thay đổi cơ cấu hoạt động của não bộ trong đoản kỳ, mà rất có thể sản sinh những đổi thay vĩnh viễn. Ông nói, sự khám phá này dựa trên sự kiện là các vị sư đã có hoạt động của làn sóng điện từ gamma cao hơn rất nhiều so với nhóm thiện nguyện viên, ngay cả khi họ chưa bắt đầu hành Thiền theo hướng dẫn của các nhà nghiên cứu.

Sources : The Age - January 9, 2005.Bài này xuất hiện lần đầu trên báo.
The Washington Post - Jan 3, 2005.


---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 3829)
Tất cả chúng ta đều đồng ý là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy. Vậy sự gặp gỡ nhau như thế nào? Đây là mục tiêu chúng ta phải nghiên cứu. Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như dưới đây:
08/01/2011(Xem: 3921)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8557)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11770)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12770)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12804)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4730)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4849)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5050)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567