Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền ngay lập tức.

22/04/201319:44(Xem: 4470)
Thiền ngay lập tức.

THIỀN NGAY LẬP TỨC

Dickwelle Mahinda Thera – Tây Đức

Mỹ Thanhdịch Việt

Theo kinh Dhammapada(Pháp Cú) và lời chú giải, sự hiện hữu cuối cùng của con người là đạt đến tầng cuối cùng ( A-la-hán hay Thanh Văn), với một đối tượng giản dị làm đề tài cho thiền định, để nhận biết sự vật như nó là. Họ có thể hiểu về ba đặc điểm của tất cả mọi vật hiện hữu, tính chất vô thường, đau khổ, và vô ngã. (Anicca, Dukkha, và Anatta), nhổ tận gốc rễ nguyên nhân của đau khổ, đó là ham muốn. Có rất nhiều vị Tỳ khưu , Tỳ khưu ni, và cư sĩ đã từng đối diện với các đề tài thiền định khác nhau, và họ thực tập ngay tức thời. Một trong những đề tài ấy như sau :

Một vị tu sĩ nhận một đề tài thiền quán từ nơi Đức Phật, và rồi đi vào rừng để thực tập. Nhưng khi vị ấy không thể nào tiến triển tốt trong việc thực hành thiền (Jhana). Vị ấy quyết định trở về gặp thầy của mình. Trên đường đến gặp đức Phật, vị ấy thấy một ảo giác. Vị ấy tự nghĩ, « Như là khi mùa nóng bắt đầu, ta thấy những ảo giác hiện diện từ nơi xa, nhưng khi ta đến gần thì chúng tự dưng biết mất, như vậy tính chất của sự hiện hữu chỉ là sanh và diệt » . Như thế, vị ấy đã thực hành thiền xuyên qua một ảo giác. Sau khi tắm trong dòng sông, vị ấy ngồi bên bờ sông, dưới bóng cây, gần một thác nước. Vị ấy thấy bong bóng nổi lên và vỡ tan. Vị ấy tự nghĩ, « Đây là sự hiện hữu có mặt và mất đi. » Và như vậy, vị ấy đã biết sử dụng đề tài thiền quán. Sau đó, đức Phật mới nói bài kệ như sau :

Phenupamam kaayamimam viditvaa

Mariicidhammam abhisambudhaano

Chetvaana maarassa papupphakaani

Adassanam maccuraajassa gacche

Ý nghĩa của bài kệ trên là :

Người nào biết rõ thân mình như bọt nước, người ấy hiểu rõ thực chất của ảo giác là gì, người ấy có thể tiêu diệt những cuống hoa ham muốn và rời xa thần chết.

Vào câu cuối của bài kệ, vị tu sĩ chứng ngộ, trở thành một vị A-la-hán (Dhammapada Puspha Vagga)

Con một người thợ bạc trở thành tăng sĩ dưới sự hướng dẫn của Đại Đức Sariputta Maha Thera. Thầy Sariputta ra đề cho vị tăng sĩ thiền định, ấy là sự ô uế của thân thể. Vị tăng sĩ suy ngẫm về đề tài rất lâu, nhưng không thấy tiến bộ chút nào, dù chỉ là một thoáng sơ thiền (Jhana). Sau đó, Thầy Sariputta đưa vị tăng sĩ ấy đi gặp đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhìn thấy trong vòng năm trăm kiếp sống, vị tăng sĩ ấy luôn sanh ra trong gia đình thợ bạc nầy. Đức Phật thấy rằng thiền định về sự ô uế của thân thể không thích hợp cho vị nầy, và đức Phật tạo ra một hoa sen bằng vàng, và bảo thầy hãy nhiếp tâm thiền về đề tài nầy. Lập lại những chữ « Máu - đỏ, máu – đỏ (Lohitakan, lohitakan) ». Khi vị tu sĩ thiền quán về đoá hoa sen bằng vàng, đức Phật làm phép cho hoa sen ấy bị héo đi. Vị tu sĩ trẻ nghĩ, « nếu mọi vật không bám víu vào thế gian mà vẫn bị phân rã và tàn hoại, vậy thì con người nếu bám víu vào thế gian sẽ cũng phân rã và tàn hoại. » Như thế, vị ấy đã giác ngộ rốt ráo những đặc tính của tất cả sự vật, đó là, sự vô thường, đau khổ và vô ngã (Anicca, Dukkha, and Anatta, và chứng quả A-la-hán. ~, Vagga 9 )

Vị A-la-hán Maha Panthaka Thera đuổi người em tu sĩ của mình khỏi tu viện, bởi vì em của ngài không thể nhớ thuộc lòng nổi một bài kệ. Đức Phật liền hiện ra trước người em, đưa cho ông một miếng vải và bảo ông hãy suy ngẫm về đề tài nầy, lặp đi lặp lại những chữ « phủi bụi trừ dơ » (Rajoharanam). Khi ông nầy quay mặt về hướng đông dùng miếng vải để lau chùi thì miếng vải bị dơ vì mồ hôi trên trán của ông.

Đức Phật hiện ra trước ông trong một linh ảnh, và nói « Bụi dơ là sự ganh ghét, si mê, hãy chùi sạch đi. » Cullaphanthaka liền chứng quả A-la-hán tức thời. (Appamada Vagga 3).

Truyện kể rằng có năm trăm vị tu sĩ nhận được đề tài thiền quán từ nơi đức Phật, họ liền lui vào rừng để tham thiền, nhập định. Trong khi những vị tu sĩ nầy đang thiền quán, họ thấy hoa lài rơi xuống. Họ liền dùng đề tài nầy để thiền quán và họ nghĩ, « Như thế, không biết chúng ta có thoát khỏi sự kềm chế của Tham, sân, si hay không.. » Và cuối cùng thì họ đều chứng quả A-la-hán (Bhikkhu Vagga 8).

Kisa Gotami sau khi trở thành nữ tu. Ngày nọ bà nhìn thấy ánh nến lung linh và bà nghĩ đến sự vô thường của cuộc sống. Đức Phật cho bà thấy hình dung của Phật ngay trước mặt, và nói kệ, nhờ đó bà chứng quả A-la-hán (Sahassa Vagga 13).

Một phụ nữ bị bệnh và chết đi. Gia đình và bạn bè đưa thi thể của bà tới khu đất để thiêu xác. Đức Phật thấy xác chết thích hợp cho đề tài thiền quán và chỉ cho Thầy Maha Kala xem. Thầy Maha Thera đến và quan sát xác chết. Khi người ta đốt xác, xác ấy giống như con bò có vằn. Đôi chân thò ra lòng thòng. Đôi tay cuộn lại phía sau. Cái trán mất da. Thầy Maha Thera suy ngẫm về sự chết và mục nát, rồi thầy chứng quả A-la-hán, đạt lục thông. (Yamaka Vagga 6).

Một tu sĩ vào rừng để thiền định nhưng thầy đã thất bại trong thiền tập. Thầy nhất định gặp đức Phật để xin một đề tài thiền quán thích hợp hơn. Thầy sửa soạn lên đường gặp đức Phật. Trên đường thầy gặp đám cháy rừng. Thầy leo lên một ngọn đồi trọc và nhìn ngọn lửa, chú tâm suy nghĩ, « Khi ngọn lửa lan tràn, thiêu đốt tất cả những chướng ngại vật, lớn cũng như nhỏ, như vậy ta cũng phải tiến bước, dẹp bỏ hết chướng ngại vật, lớn và nhỏ bằng ngọn lửa Trí tuệ của con đường chánh pháp. » Vừa nghĩ tức thì vị ấy đạt quả vị A-la-hán (Appamada Vagga 8)

Patacara là con gái của một thương gia giàu có ở Savatthi. Patacara trốn đi xây tổ uyên ương cùng với người giúp việc cho gia đình cô. Hai vợ chồng sinh sống trong một làng nọ. Sau cái chết của hai người con trai, chồng, cha mẹ, bà Patacara trở nên điên loạn. Sau khi thiền quán về một bài kệ của đức Phật, bà Patacara đạt quả vị Dự Lưu. Sau đó, bà xuất gia và trở thành một vị ni.

Ngày nọ bà đang rửa chân. Khi bà dội nước, bà làm đổ một ít nước trên đất. Nước chảy thành một đường nhỏ và biến mất. Lần thứ hai, nước chảy xa hơn một chút … Lần thứ ba nước chảy xa hơn một chút nữa. Sau đó, bà thiền quán về đề tài nầy, suy ngẫm về ba lần nước chảy, bà ngẫm như sau : « Lần đầu làm đổ nước, nước chảy chút xíu rồi biến mất, cũng như đối với chúng sanh ở thế gian nầy, chết khi tuổi còn trẻ. Lần thứ hai, nước chảy xa hơn một chút, cũng như chúng sanh ở thế gian nầy chết trong khi tuổi đang xuân. Lần thứ ba, nước chảy xa hơn một chút, cũng như chúng sanh ở thế gian nầy, chết khi về già. »

Đức Phật liền hiện ra trước mặt bà trong một linh ảnh, và nói như sau, « Tốt nhất là sống trong từng giây phút của một ngày, nhận thấy sự hiện hữu và hoại diệt của đời sống, còn hơn là sống cả trăm năm mà chẳng thấy gì.»

Ngay sau câu cuối của đức Phật, bà Patacara đạt quả vị A-la-hán với những phép thần thông. (Sahassa Vagga 12).

----o0o---

Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2022(Xem: 2226)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”--- và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới. Trong khi Thiền chánh niệm (Mindfulness meditation) lợi ích nhiều vô tận, vẫn có một số bất lợi sinh khởi. Có phải là vì thế gian chưa làm cho phù hợp? Do vậy, người viết đã tìm đọc nhiều hơn, để nhìn lại vấn đề theo nhiều khía cạnh. Và rồi dò theo con đường xưa, Đức Phật đã dạy thiền như thế nào? Kinh điển rất mực mênh mông, bài viết này chỉ là tổng hợp một phần nhỏ, chủ yếu là trích dẫn những lời dạy thực dụng của Đức Phật. Đối với các sai sót có thể có, người viết xin được sám hối.
26/08/2022(Xem: 2245)
Sai lầm lớn nhất của con người là cố chấp cái nhìn cục bộ của mình. Thực ra chân lý là pháp phổ biến, không dành riêng cho bất cứ ai. Mỗi người giác ngộ chân lý qua tầm nhìn của mình về chính mình và vạn pháp. Người có tầm nhìn lớn nhất là người thông suốt được tất cả tầm nhìn của nhân loại. Như đức Phật thấy được 62 tà kiến của thế gian. Đừng hiểu tà kiến là thấy sai, cái sai không phải ở thấy mà ở cố chấp cục bộ. Ví dụ như những người mù sờ voi, cho con voi là cái chân, cái bụng, cái lưng, cái ngà, cái đuôi, cái vòi, cái tai, con mắt
25/08/2022(Xem: 1862)
Thiền tập CHÁNH NIỆM sẽ giúp cho chúng ta cảm nhận được sự an lạc trong từng giây phút của cuộc sống. Thiền cũng tăng sự tập trung, tăng kỹ năng nhớ, vượt qua áp lực căng thẳng trong đời sống hằng ngày… Thể theo nhiều yêu cầu của các bạn trong và ngoài nước, buổi họp ra mắt lớp Thiền Tập Chánh Niệm và Yoga sẽ được họp qua hệ thống ZOOM. Vào: * Ngày 24 tháng 09, 2022 lúc 6:30pm-8:00pm (Central time/Hoa Kỳ-Tối Thứ 7 tại Hoa Kỳ) *Nhằm ngày 25 tháng 09, 2022 lúc 6:30am-8:00am (sáng Chủ Nhật tại Việt Nam)
07/01/2022(Xem: 3180)
Chứng ngộ không phải là một kết luận mà người ta đạt được bằng suy luận; nó coi thường mọi xác định của trí năng. Những ai đã từng kinh nghiệm điều nầy đều không thể giải thích nó một cách mạch lạc và hợp lý. Một khi người ta cố tình giải thích nó bằng ngôn từ hay cử chỉ, thì nội dung của nó đã bị thương tổn ít nhiều. Vì thế, kẻ sơ cơ không thể vói tới nó bằng những cái hiển hiện bên ngoài, mà những ai đã kinh nghiệm qua một lần chứng ngộ thì thấy rõ ngay những gì thực sự không phải là nó. Kinh nghiệm chứng ngộ do đó luôn luôn mang đặc tính ‘bội lý,’ khó giải, khó truyền. Theo Thiền sư Đại Huệ thì Thiền như là một đống lửa cháy lớn; khi đến gần nhất định sém mặt. Lại nữa, nó như một lưỡi kiếm sắp rút ra khỏi vỏ; một khi rút ra thì nhất định có kẻ mất mạng. Nhưng nếu không rút ra khỏi vỏ, không đến gần lửa thì chẳng hơn gì một cục đá hay một khúc gỗ. Muốn đến nơi thì phải có một cá tính quả quyết và một tinh thần sung mãn. Ở đây chẳng có gợi lên một chút suy luận lạnh lùng hay phân biệt
12/12/2021(Xem: 3186)
Thế Tôn là bậc tuệ tri mọi pháp, bậc y vương, thầy của trời người trong tam giới. Vì thế, Đấng Thiện Thệ trong 45 năm thuyết pháp đã để lại cho thế gian một kho tàng pháp bảo, là những diệu dược tùy theo bệnh (tham sân si) của chúng sanh mà kê toa thích ứng nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, niết bàn. Riêng trong tạng Pali, ngoài tứ niệm xứ, minh sát tuệ, Thế Tôn từ mẫn với trí tuệ toàn giác (tuệ tri mọi pháp) đã 'có nhiều phác đồ điều trị khác nhau trên nền tảng của đạo đế: Bát Chánh Đạo' diệu dụng mà theo đó tùy theo căn cơ (tùy pháp, hành pháp), sẽ đến bờ giải thoát, hoặc bậc hữu học vv.
16/11/2021(Xem: 7063)
01. Niết-bàn 02. Vô minh 03. Giáo lý Vô thường 04. Không có ngã hay Không phải ngã 05. Pháp môn Không phải ngã 06. Định nghĩa của Niệm 07. Giáo dục lòng Từ Bi 08. Tin vào Trái Tim: Giáo lý về Saṁvega & Pasāda 09. Làm sao để hiểu tâm mình? 10. Hoà Giải, Phải & Trái 11. Gốc rễ của chủ nghĩa Lãng mạn Phật giáo * AFFIRMING THE TRUTHS OF THE HEART - BUDDHIST ESSAYS by Thanissaro Bhikkhu CONTENTS 01. The Image of Nirvāṇa 02. Ignorance 03. All About Change 04. No-self or Not-self? 05. The Not-self Strategy 06. Mindfulness Defined 07. Educating Compassion 08. Affirming the Truths of the Heart: The Buddhist Teachings on Saṁvega & Pasāda 09. How to Read Your Own Mind 10. Reconciliation, Right & Wrong 11. The Roots of Buddhist Romanticism
06/11/2021(Xem: 8846)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
18/06/2021(Xem: 9230)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
03/04/2021(Xem: 4607)
Trước khi vào nội dung bài viết ta nhắc lại một vài kiến thức của vật lý cấp 2 phổ thông cần thiết cho chủ đề này. Một vài thuật ngữ: Trọng tâm G của một vật: là điểm đặt của trọng lực P tác dụng lên vật đó (P được biểu thị bằng một mũi tên thẳng đứng có chiều hướng xuống dưới). Chân đế: là đa giác lồi nhỏ nhất chứa tất cả các điểm tiếp xúc giữa một vật với mặt phẳng đỡ nó. Chân đế là một hình phẳng, nó cũng có trọng tâm G1, với những hình đặc biệt như hình vuông thì trọng tâm của nó là giao điểm của 2 đường chéo, nếu là hình tam giác thì trọng tâm của nó là giao điểm của 3 đường trung tuyến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567