Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Vipassana giúp tôi thoát khỏi ma túy.

22/04/201319:42(Xem: 5449)
Thiền Vipassana giúp tôi thoát khỏi ma túy.


hoa_sen (3)

THIỀN VIPASASANA

GIÚP TÔI THOÁT KHỎI MA TÚY

TN Hằng Liên dịch

---o0o---

Tôi đến với Thiền Vipassana hoàn toàn nhờ duyên số hay đúng hơn là “định mệnh” (sheer fate)! Cho đến hôm nay nghĩ lại tôi vẫn còn ngạc nhiên, thật không ngờ một người sống thiếu lập trường như tôi mà có thể chuyển hóa và tiến bộ trở thành người có ý chí mạnh mẽ.

Tôi bước vào khung trời Đại học (College) với tuổi xuân xanh mười lăm và cùng lúc tôi buông mình rơi trong thế giới nghiện ngập. Ban đầu tôi chỉ dùng các loại thuốc hút gây hưng phấn nhẹ nhàng, nhưng rồi không thỏa mãn với các khoái cảm ‘lạc thú’ nhẹ nữa, tôi tiến đến dùng bạch phiến và các loại khác chế biến từ thuốc phiện. Thói quen của tôi bắt đầu ngấm nặng dần do độ kích thích và rung cảm của chất nghiện, nhưng khi nhận thức rõ điều này thì (quá muộn) vì tôi không thể sống thiếu Ma Túy được. Tôi cố gắng (kiềm chế) nhiều lần bằng lý trí của chính mình, nhưng tôi hoàn toàn thiếu nghị lực, bởi lẽ tôi chưa bao giờ đối diện với sự thật rằng chính mình là người nghiện “xì ke ma túy.”

Cho đến khi các người thân sống bên cạnh tôi phát hiện ra điều này, tôi không dám lộ diện ra ngoài xã hội nữa, cho dù sau này tôi cố gắng hoàn toàn từ bỏ bịnh nghiện. Tôi bị rơi vào nghiệp ngập do vì đầâu óc rỗng tuếch mà không một loại lý trí nào có thể cưỡng giúp nổi.

Thế là các chuyến du hành vào bịnh viện bắt đầu, tôi được giải độc nhiều lần nhưng hiệu quả cai nghiện lâu nhất chỉ trong vòng một tháng. Dưới sự hướng dẫn của các bác sĩ doanh nghiệp chuyên khoa điều trị, tôi cai nghiện được một lần. Nhưng rồi cơn nghiện lại tái phát! Việc học của tôi trở nên sa sút, niềm an vui – hạnh phúc của gia đình bị phá vở và mọi người đều phản đối tôi. May mắn thay! gia đình không bỏ rơi tôi hoàn toàn, nhưng cuộc đời tôi biến thành tồi tệ không thể tưởng tượng nổi.

Trong số những người bạn thân của cha tôi, có người đã từng tham dự một khóa thiền Vipassana. Một hôm, ông bạn này nhìn thấy gương mặt xanh xao của tôi liền thuyết phục cha tôi rằng, “chỉ cần cho (Con của anh) tham dự một hay hai khóa thiền có thể giúp nó hồi phục, cho dù thất bại cũng chẳng mất mát gì.” Vì vậy, tôi trở vào bịnh viện giải độc lần cuối, rồi khởi hành đến Trung Tâm Thiền “Dhamma Giri” vào độ tuổi 20. Tôi bị đưa vào Trung Tâm Tu Thiền với ý tưởng ép buộc, và trong cảm giác đầu tiên rằng nơi này giống như “một nhà tù luôn mở rộng với ranh giới (khép kín).”

Tôi được chấp nhận vào Trung Tâm Thiền dưới sự giám sát của vị Thầy hướng dẫn Thiền Vipassana và trong sự bảo vệ như “một nhân vật quan trọng” (VIP). (Theo quy luật của Thiền Môn, ban quản lý tạm cất giữ toàn bộ vật dụng quý giá và tiền bạc của thiền sinh trong suốt khóa tu.) Vị Thầy hướng dẫn tin chắc tôi không còn cất giữ tiền bạc và tuyên bố với tôi rằng, “không được phép rời khỏi Trung Tâm Thiền với bất cứ lý do nào cho đến khi mãn khóa.” Một vị hộ thiền hay hộ pháp được phân công trợ duyên cho tôi, thế là tôi “bị cấm cung và cuộc hành trình nội tâm” bắt đầu.

Như thường lệ, khóa thiền bắt đầu với phương pháp Anapana (tỉnh giác về hơi thở). Tôi cảm thấy cực kỳ khó chịu và bất an vì không quen ngồi thiền, hơn nữa (pháp thiền này) không được phép thực hành bất cứ hình thức hay đối tượng nào bên ngoài để định tâm. Vào ngày đầu tiên, tôi đã có ý tưởng chạy trốn, nhưng biết mình không còn tiền bạc thì không thể đi đâu xa được. Vì thế, tôi quyết định ở lại và cũng nhờ vào sự giám sát hay “canh giữ” của vị hộ thiền. Điểm đặc biệt chinh phục được tâm tôi là vị hộ thiền có thái độ đáng tôn quý. Mặc dù chỉ lớn hơn tôi có hai tuổi, anh ta trông rất trưởng thành và có trí tuệ vượt xa hẳn tôi. Tôi thử chọc giận anh ta, nhưng anh ấy vẫn không thay đổi thái độ tận tình trợ duyên và điều này sách tấn cho tôi nhiều hơn.

Thông thường, pháp thiền Vipassana được hướng dẫn vào ngày thứ tư (và thiền sinh bắt đầu thực hành nghiêm túc hơn để thật sự bước vào dòng sông chánh pháp). Tôi không thể nào tuân giữ nổi quy luật, “giữ vững quyết tâm hành trì một cách triệt để” (adhitthana), nhưng vào ngày thứ chín tôi quyết định cố gắng hành trì. Tôi nổ lực ngồi trong sự tra tấn (của cơn đau) xuyên suốt một tiếng đồng hồ không thay đổi tư thế thiền định và chính nổ lực này đã khai sáng “nhân sinh quan” trong tâm tôi. Tôi nhận thức rằng, nếu tôi có thể chịu đựng cơn đau này trong vòng một giờ, thì tương tự tôi có thể từ bỏ Ma Túy được. Mặc dù thử thách này không đơn giản chút nào cả!

Một số nội quy của Trung Tâm Thiền được giảm chế tức cải thiện (đặc biệt cho bịnh nhân) giúp tôi thích nghi với môi trường thiền định. Chẳng hạn như, quy luật hoàn toàn tỉnh lặng (hay tịnh khẩu) và nghiêm túc hành trì được châm chế cho tôi. Cũng như tôi được phép dùng bửa tối để bảo vệ sức khỏe, vì cơ thể tôi quá ốm yếu.

Sau khi mãn khóa thiền, tôi rời Trung Tâm với ý tưởng đầu tiên sẽ đến thành phố Bombay tìm nơi “thả cửa – nghiện,” nhưng khi đến nơi cơn nghiện giảm hẳn xuống. Tôi quyết định cai nghiện một ngày, tiến đến hai ngày, rồi từng ngày một trôi qua tôi nhận thấy mình có thể sống (vượt qua nổi khao khát) không cần dùng thuốc phiện. Hiện nay (với tuổi hai mươi sáu), tôi đã từ bỏ ma túy được sáu năm và không còn dấu vết lên cơn nghiện nữa.

Tôi trở lại Trung Tâm Thiền “Dhamma Giri” (năm hai mươi ba tuổi), xin đăng ký ở lại chín tháng để phục vụ và tham gia các khóa thiền. Nhờ đó, tâm tôi được tăng trưởng trong chánh pháp và lập trường sống của tôi tiến triển vững vàng hơn.

Tóm lại, trải qua các nổi đau trong từng quá trình cai nghiện giúp tôi điều trị được cơn nghiện và cuối cùng hoàn toàn từ bỏ Ma Túy nhờ hành trì thiền Vipassana. Giờ đây, tôi tự tin rằng: “mình là một con người bình thường” và là “một thanh niên hữu ích cho xã hội.”

TN Hằng Liên dịch từ: Parveen Ramakrishnan, How Vipassana Helped Me Get Rid of Drugs, VRI.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 3835)
Tất cả chúng ta đều đồng ý là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy. Vậy sự gặp gỡ nhau như thế nào? Đây là mục tiêu chúng ta phải nghiên cứu. Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như dưới đây:
08/01/2011(Xem: 3933)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8577)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11789)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12785)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12815)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4737)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4866)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5059)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567