Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài suy nghĩ về thiền tông Việt Nam .

22/04/201319:38(Xem: 4809)
Vài suy nghĩ về thiền tông Việt Nam .

Vài suy nghĩ về thiền tông Việt Nam

Trần Hồng Liên

I/Trong tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam, điều mọi người thừa nhận và khẳng định đó là tính chất dân tộc của Phật giáo. Từ ngay trong bản thân Phật giáo, tính tùy thuận đã có. Tùy vùng đất, tùy địa phương, tùy dân tộc mà có sự biến đổi. Tính mềm dẻo, dễ dàng dung hợp với mọi hoàn cảnh đã là một trong những yếu tố nội sinh góp phần làm cho Phật giáo Việt Nam có được những đặc điểm riêng.

Trải qua các triều đại, đạo Phật đều thể hiện nét riêng biệt đặc thù và cả trong ba yếu tố cấu thành của Phật giáo Việt Nam là Thiền tông, Tịnh độ và Mật tông cũng tuy từng thời điểm khác nhau mà thể hiện yếu tố này nhiều hay ít hơn yếu tố khác. Từ đó cũng có thể cho rằng con người và hoàn cảnh xã hội mỗi thời kỳ cũng có thể cho rằng con người và hoàn cảnh xã hội mỗi thời kỳ cũng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần quy định bản chất của Phật giáo Việt Nam. Trong lịch sử tuy rằng có những giai đoạn phát triển rực rỡ của Phật giáo, trong đó có yếu tố Mật tông vượt lên trên, với nhà sư nổi tiếng Từ Đạo Hạnh.... nhưng phải thừa nhận rằng trong suốt tiến trình lịch sử, Thiền tông vẫn là yếu tố, là giòng phái chủ đạo mang tính bao trùm, và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi hoạt động của Phật giáo Việt Nam.

II/ Khi đề cập đến các thiền sư đời Trần và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ai cũng thừa nhận đó là một trong những Thiền phái tiêu biển cho Phật giáo Việt Nam và Thiền tông. Do đâu triều đại này có được những mặt tích cực đó ? Tìm hiểu điều này cũng có nghĩa là nêu lên những đặc điểm của Thiền tông Việt Nam.

- Tính vô ngã, vị tha : Đây là một trong những tính chất mang tính tiêu biểu của Phật giáo, là mục đích nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân, là phương tiện chi phối mọi hoạt động. Vô ngã và vị tha là hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tùy thuộc vào nhau. Khi bản ngã còn thì không có được vị tha trọn vẹn. Ở những triều đại khác, nơi mỗi nhà tu hành, ít nhiều cũng có hai yếu tố này, nhưng đặc biệt đối với triều đại nhà Trần, là giai đoạn có sự thử thách cao, đối đầu với xâm lược có tầm cỡ trên thế giới, nên để đạt được mục tiêu chung, nhằm giữ gìn nền độc lập cho xứ sở, tính chất này càng được bộc lộ mạnh mẽ. Những đố kỵ, hiềm khích, ghen ghét nhau trong vua tôi tạm thời được gác lại, để tập trung vào mục tiêu chung, thì trong các Thiền sư, tính chất vô ngã, vị tha càng được thể hiện rõ nét qua câu nói của nhà sư trụ trì trên dãy Yên Tử (Quốc sư Trúc Lâm hay Phù Vân) khuyên vua Trần Thái Tông : "Phàm là đấng làm vua cai trị muôn dân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình".

- Tinh thần nhập thế : Có "tâm vô ngã" thiền sư mới hòa mình trọn vẹn vào cuộc đời, không còn cái tôi nên không còn phân biệt hình tướng đạo đời, mới sống an nhiên, tự tại không thấy mình là nhà tu, là khác đời, và vì vậy mà không tạo thế xa cách. Tuệ Trung là một người đạo cao, đức trọng, được vua Thánh Tông khâm phục gọi là Thượng Sĩ (tức là Bồ Tát), khi hay tin giặc Nguyên xâm lược, ông rời khỏi thiền lâm ra trận. Vua Nhân Tông sau khi đổi pháp hiệu là Trúc Lâm đã đi "vân du, hành đạo" không còn mang tư tưởng mình là một vị vua cai trị muôn dân, ông đã thoát bỏ dễ dàng cái ta, đạt được tinh thần vô ngã nên mới có hành động vị tha, đi vào dân để kêu gọi hành thập thiện. Do vậy, nhập thế vào đời, điều kiện trước hết đòi hỏi ở người hành đạo, ở một thiền sư, là phải có tinh thần vô ngã, vị tha. Càng thể hiện trọn vẹn tinh thần này thì hành động càng mang lại lợi ích thiết thực. Tinh thần này còn được thể hiện qua cái nhìn và việc đánh giá cao về con người và vai trò của Tuệ Trung. Dưới con mắt của nhà Thiền, Tuệ Trunng được đưa lên tầm cao và được phá bỏ những dị biệt về hình tướng, không còn xét xem đó là một tu sĩ hay cư sĩ, là người đạo hay kẻ đời.

Như vậy, một triều đại có được tư tưởng thiền tông xuyên suốt, biết vận dụng nó làm kim chỉ nam cho mọi tư tưởng và hành động của mình, như triều Trần, nên đã tạo cho Phật giáo đời Trần một thời kỳ rực rỡ trong lịch sử, thể hiện cao tinh thàn dân tộc, ở đó tính chất nhập thế được xem là giáo lý căn bản, dùng nó làm nền tảng cho đạo đức xã hội, xây dựng một hệ thống giáo hội mới và hệ thống kinh sách mới, không lệ thuộc và chịu ảnh hưởng nặng nề của Phật giáo từ Ấn Độ cũng như từ Trung Quốc.

Khi có ngoại xâm, các thiền sư đã "cởi áo cà sa khoác chiến bào". Hành động đó phát xuất từ tấm lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn của những người con Phật, nhưng không chỉ có thế. Ở đây, xuyên suốt giòng lịch sử phát triển của dân tộc, cũng là lịch sử tranh đấu không ngừng với ngoại xâm, đã un đúc trong những con người Việt một tinh thần yêu nước nồng nàn, đã kết tinh thành truyền thống và trải qua các thời đại, tinh thần này càng phát triển.

Những vị vua nhà Trần cũng đồng thời là những thiền sư đã thể hiện được sự kế thừa, tiếp thu đạo Phật một cách chọn lọc và sáng tạo, đã bằng những hành động của mình, khơi sáng đem lại cho Phật giáo một sức sống thực sự, làm cho đạo Phật bị trở thành giáo điều, khô cứng. Qua các thiền sư đời Trần, Phật giáo đã đi vào cuộc đời, đã tồn tại trong lòng dân tộc. Ở các thiền sư đời Trần, thiền lý và thiền hành đã nhập làm một, không phân biệt, chỉ còn lại Trí Huệ Bát Nhã, dùng nó bằng nhiều hình thức khác nhau, bằng mọi phương cách khác nhau, để phục vụ nhân sinh.

Trong Phật giáo Trúc Lâm không phải là hình ảnh những thiền sư ngồi yên lặng tham thiền nhập định, bởi vì xét cho cùng, đó cũng chỉ là một công đoạn, một phương tiện, tạo điều kiện cho những người tu hành thiền bước đầu đi vào con đường nhận chân thực tánh, chứ chưa phải là phương cách thể hiện thiền. Và nói theo ngôn ngữ của vị tổ sư thiền nổi tiếng Bồ Đề Đạt Ma thì "đối với tôi, chỉ đạt đến thiền khi ta được Phật tánh của chính mình...". Sự kiến tánh cũng giống như đồ ăn, cũng giản dị và lập tức như thế, người ta không bao giờ lý thuyết viển vông chung quanh sự nuốt đồ ăn ấy, ta biết nuốt hay không biết nuốt, chỉ có thế thôi !

Như vậy, thấy được Phật tánh, đã giác ngộ, không còn xem nặng cái ta vị kỷ nhỏ nhen, mà tấm lòng, tình thương đã đặt trọn vẹn vào tha nhân, thì mọi hành động hoàn toàn vì dân, vì nước, phải chăng cũng chính là hình ảnh thể hiện tinh thần của một con người đạt được đạo thiền và hành thiền ?

III/ Kế thừa sự nghiệp nổi bật này, tinh thần nhập thế và tư tưởng thiền Trúc Lâm cũng được thể hiện lại mạnh mẽ, rõ ràng và cụ thể hơn qua sự xuất hiện của một đạo giáo : Bửu Sư Kỳ Hương tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng đất cuối cùng của tổ quốc, nơi chứa đựng những tinh hoa của nhiều thế hệ, của nhiều luồng văn hóa, văn minh thế giới. Với Bửu Sơn Kỳ Hương, một lần nữa, thiền tông Việt Nam được nổi rõ những đặc điểm của mình. Tinh thần nhập thế, đưa đạo Phật đi vào cuộc đời, hành động và áp dụng giáo lý Phật giáo là vì con người và cho con người, nên trước hết cần thực hiện bốn trọng ân (ân tổ tiên cha mẹ, ân tổ quốc, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại). Đây cũng là sự kế thừa có sáng tạo cho phù hợp với con người, thời đại và vùng đất đai tại đây. Đạo Phật Bửu Sơn Kỳ Hương, với tinh thần thiền tông Việt Nam, đã hòa vào cuộc đời sâu xa và cụ thể đến mức không còn phân biệt hình tướng, là tu sĩ hay cư sĩ, đã trở về với cội nguồn dân tộc, qua truyền thống yêu nước, qua trang phục, vốn là những chiếc bà ba màu đà, màu của ruộng đồng phù sa Nam Bộ, qua búi tóc, qua các hình thức thờ phụng gần gũi với tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc là thờ cúng tổ tiên.

Gần đây hơn, thế kỷ XIX, danh nho Trịnh Hoài Đức còn lưu lại bài thơ thiền tặng Hòa thượng Viên Quang (trụ trì đầu tiên của tổ đình Giác Lâm). Bài thơ nổi tiếng ấy có hai câu thơ kết nói lên tinh thần thiền của một danh hào, là hiệp tổng trấn Gia Định thành : "Vãng sư hà túc luận, đại đạo hợp như thị" (Chuyện xưa nói làm gì, đạo lớn thảy như vậy). Đạo lớn thảy như vậy, là an nhiên mà hòa nhập được vào đời. Đạo lớn thảy như vậy là đều phải sinh hóa theo cái đạo của dòng đời vô cùng vô tận (2). Tinh thần này cũng là tinh thần của thiền tông Việt Nam.

Còn nữa, hình ảnh này của Thiện Chiếu và câu nói : "Phật Pháp thị nhập thế nhi phi yếm thế, từ bi nãi sát sinh dĩ độ chúng sinh", và hành động của Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để đấu tranh cho Đạo pháp và dân tộc là những hình ảnh đã đi vào lịch sử Phật giáo của thiền tông Việt Nam.

IV/Tóm lại là một trong những thiền phái tiêu biểu cho thiền tông Việt Nam, những thiền sư của phái Trúc Lâm cũng như những thiền sư khác của Việt Nam đều đã thể hiện chất thiền của mình qua hành động : "Thiền là hành động" là một trong những đặc điểm của thiền tông Việt Nam. Vận dụng, tiếp thu, kế thừa có sáng tạo, đạo Phật Bửu Sơn Kỳ Hương cũng đã đi vào lòng dân, không còn tổ chức giáo hội, mỗi người đã trở thành một "thiền sư", một người hành thiền ngay trong cuộc sống của chính mình. Tính chất hòa nhập vào cuộc đời, đã làm cho thiên tông Việt Nam mang nét riêng biệt, đặc thù, trở thành một lối sống.

Ngày nay tinh thần thiền tông Việt Nam càng bàng bạc trong mỗi người mang tấm lòng vì dân vì nước, quyết cống hiến, hy sinh trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp cao cả, cho hạnh phúc của toàn dân và vì độc lập của tổ quốc. Có quá đang hay không khi cho rằng đấy cũng chính là những "thiền sư" tiếp nối vẻ vang tinh thần Việt Nam trong lịch sử.

Ghi chú

(1) Phạm Công Thiện : Tiểu Luận Về Bồ Đề Đạt Ma,

(2) Cao Tự Thanh : Về Bài Thơ của Trịnh Hoài Đức, Tập san Phật Đản PL 2536.

Trích từ Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền Tông Việt Nam.

---o0o---


Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3917)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8552)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11762)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12765)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12795)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4728)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4848)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5048)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7349)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567