Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 1: Kho Báu Ẩn Tàng

27/11/201017:34(Xem: 3723)
Chương 1: Kho Báu Ẩn Tàng

 

LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
Về Sự Thành Tựu Trong Gia Đình, Nơi Công Sở, Ngoài Xã Hội

Tỳ Kheo Tiến Sĩ Basnagoda Rahula
Chuyển Ngữ sang tiếng Việt: Diệu Liên Lý Thu Linh & Diệu Ngộ Mỹ Thanh 2010

Chương 1

Kho Báu Ẩn Tàng

Mặt trăng, mặt trời và giáo Pháp của ta…

Tất cả đều chiếu sáng rực rỡ khi được khám phá ra.[1]

Tăng Chi Bộ Kinh

Đối với một số người, sự hướng dẫn của Đức Phật dành cho người cư sĩ để họ có được cuộc sống thế tục tốt lành, có vẻ là một đề tài hoàn toàn mới và lạ lẫm. Đa số có nhận định chung rằng Đức Phật chỉ dạy về khổ, vô thường, và sự diệt dục. Do ảnh hưởng của niềm tin này, chúng ta có thể cho rằng Đức Phật đã không quan tâm đến hạnh phúc trong đời sống thế tục và không khuyến khích hàng đệ tử tại gia đạt được thành công vật chất trong cuộc sống. Hơn thế nữa, chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Phật khuyên tất cả những người lắng nghe giáo lý của Ngài từ bỏ mọi niềm vui thế tục và chỉ tìm kiếm hạnh phúc trong đời sống xuất gia.

Tuy nhiên, khi tìm hiểu sâu hơn về giáo lý của Đức Phật, chúng ta sẽ thấy rằng sự diễn giải đó hoàn toàn không chính xác. Rõ ràng là Đức Phật công nhận và tán thán hạnh phúc trong cuộc sống thế tục. Ngài không những khuyến khích ta tìm kiếm hạnh phúc, tạo ra tài sản, mà còn dạy ta làm thế nào để tiết kiệm, đầu tư và quản lý tài sản nữa. Ngài cũng có những lời khuyên đối với cộng đồng cư sĩ về sự tương giao, các mối liên hệ xã hội, việc chọn lựa các quyết định sáng suốt và sự phát triển nhân cách một cách lành mạnh.

Tóm lại, trái với những gì người đương thời suy nghĩ, giáo lý của Đức Phật bao gồm cả những lời dạy vô giá giúp người cư sĩ đạt được thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.

Xã Hội Đặc Biệt, Tôn Giáo Đặc Trưng

Người đọc tò mò sẽ tự hỏi tại sao Đức Phật lại quan tâm đền đời sống thế tục? Họ có thể cho rằng tôn giáo phải là một hệ thống niềm tin vượt lên trên những điều liên quan đến đời sống thế tục, chứ không phải là một hệ thống tư tưởng nhằm hướng dẫn cuộc sống thế tục. Tuy nhiên, giáo pháp của Đức Phật mang đến cho ta một cách tiếp cận tôn giáo hoàn toàn khác với phần lớn các tôn giáo khác.

Triết lý cơ bản của Đức Phật và các yếu tố xã hội đặc trưng ở Ấn Độ vào thể kỷ thứ VI trước công nguyên, là hai nguyên nhân đưa đến việc Đức Phật không chỉ giúp các đệ tử của Ngài đạt đến sự tiến bộ tâm linh mà cũng giúp họ sống cuộc sống đời thường của mình một cách hoàn hảo. Đức Phật chẳng bao giờ tự cho mình hay các đệ tử của mình là những vị sứ giả hay đại diện cho một quyền lực thần bí nào. Do đó, tầm quan trọng và giá trị của giáo lý của Ngài đối với xã hội phải thể hiện chủ yếu về mặt những ích lợi xã hội một cách cụ thể, rõ ràng.

Trong khi một vị Bà-la-môn có thể hướng dẫn đệ tử mình cúng bái phẩm vật cho một vị thần thánh nào đó để xua đuổi một tai họa đang đe dọa, thì Đức Phật không chủ trương cần có các nghi lễ và niềm tin như thế. Trái lại, Đức Phật nhấn mạnh đến sự nỗ lực và trách nhiệm cá nhân, coi đó là chìa khóa để giải quyết những hoàn cảnh khó khăn. Bất cứ khi nào người thính Pháp đặt ra câu hỏi về đời sống cá nhân của mình, Đức Phật cũng sẽ phân tích vấn đề và đưa ra các giải pháp dựa trên trách nhiệm, bổn phận và khả năng của con người. Vì Đức Phật và các đệ tử xuất gia của Ngài luôn đưa ra những giải pháp hợp lý cho các đệ tử tại gia, nên “đời sống tại gia” trở thành một đề tài thường xuyên được nhắc đến trong giáo lý của Đức Phật.

Sự kỳ vọng của xã hội cũng khuyến khích ta quan tâm đến đời sống hàng ngày sâu sắc hơn. Đức Phật sống ở một thời đại trong đó hàng trăm các nhà truyền giáo và lãnh đạo tư tưởng tranh giành nhau kêu gọi tín đồ tin theo tông phái của mình. Một số diễn giả này đã công khai chống lại các vấn đề tâm linh, và thuyết phục con người rằng những tư duy như giác ngộ, sự hiện hữu sau khi chết và tái sinh đều là ảo tưởng. Kết quả là xã hội đó trở nên bài xích tôn giáo, quá thiên về thế tục đến nỗi hầu hết mọi người đều thấy rằng cuộc sống hiện tại của họ hấp dẫn hơn những gì đang chờ đợi họ ở phía trước –và họ hướng về những vị thầy có thể giúp đỡ họ trong cuộc sống hằng ngày hơn là những vị thuyết giảng về cuộc sống sau khi chết.

Thính giả của Đức Phật cũng mang theo những kỳ vọng này đến với Phật. Họ mong đợi Đức Phật có thể chỉ dạy cho họ phương cách để đạt được thành công trong đời sống thế tục. Điều thú vị là giáo lý của Đức Phật rất phù hợp với một xã hội như thế. Đức Phật không ngừng ứng dụng triết lý của Ngài để đem lại lợi ích cho cộng đồng cư sĩ, và điều đó đã làm cho các đề tài về cuộc sống thế tục được thêm phong phú. Vì lẽ đó, sự phồn vinh của xã hội, thể hiện trong cuộc sống thế tục, trở thành là một đề tài lớn và sâu sắc trong giáo lý của Đức Phật.

Thế kỷ thứ VI trước Công nguyên là thời đại phục hưng ở Ấn Độ. Các doanh nhân nhộn nhịp trao đổi, buôn bán với Ba Tư và Hy Lạp qua đường bộ và đường biển. Với việc kinh doanh phát triển và tài sản tăng trưởng, các cộng đồng dân cư khá giả bành trướng ra Magadha và Kosala –hai bang mà Đức Phật thường xuyên viếng. Do đó, việc quản trị kinh doanh, việc có những quyết định khôn ngoan –cùng với việc sắp xếp đời sống gia đình, làm chủ các mối liên hệ xã hội- được xem là những khía cạnh quan trọng trong cuộc sống đời thường. Đức Phật, với uy lực, với sự nổi tiếng của Ngài, cũng như với các cách tiếp cận hợp lý đối với những vấn đề này, đã khiến Đức Phật nổi bật lên trong xã hội thời đó như là một nhà tư vấn lỗi lạc nhất đối với cộng đồng cư sĩ.

Hơn thế nữa, Đức Phật phải đóng một vai trò đặc biệt linh động trong việc dung dưỡng cộng đồng cư sĩ giàu có, vì tăng đoàn của Ngài không thể tồn tại nếu không có các vị thí chủ giàu có này. Cả Đức Phật lẫn các đệ tử xuất gia của Ngài đều không phải là các vị đạo sĩ tu hành khổ hạnh. Họ là những nhà vận động xã hội, những người sống trung đạo, tránh cả hai việc tự hành xác hay tự đắm mình trong dục lạc. Vì lợi ích của hàng đệ tử xuất gia, Đức Phật hoàn toàn thỏai mái khi nhận đất đai, tài sản do các vị thí chủ giàu có cúng dường và Ngài cũng thường nhận lời mời đến các lâu đài hay dinh thự của họ để thọ trai, thường là cùng với hàng trăm tỳ kheo khác. Vì sự tồn tại của tăng đoàn của Đức Phật tùy thuộc vào sự phát đạt của các vị thí chủ cư sĩ, nên Đức Phật cần hướng dẫn họ đến sự thành công vật chất.

Quan điểm của Đức Phật đối với nhiều khía cạnh của đời sống thế tục dường như là do ảnh hưỡng của chính những sự liên hệ của Ngài với tầng lớp thượng lưu. Một số các đệ tử và thí chủ trung thành nhất của Đức Phật là các vị vua, hoàng tử, các doanh nhân, là những người luôn cố gắng làm tăng trưởng thêm của cải, tài sản và thỏa mãn dục lạc của họ. Thí dụ vua Kosala thường hỏi Đức Phật những câu như là “Giác quan nào cần được thỏa mãn nhất?”[2] Nhiều người khác lại hỏi về việc làm sao để đời sống của họ hạnh phúc hơn. Do nền tảng xã hội đặc biệt này, “sự thành công và hạnh phúc trong đời sống thế tục” đã trở thành một đề tài quan trọng trong giáo lý của Đức Phật. Đức Phật bằng nhiều cách, cũng tích cực giúp các đệ tử tại gia trong đời sống gia đình của họ, và Ngài cũng khuyên các đệ tử xuất gia của Ngài nên làm như thế.

Hai Quan Điểm Về Hạnh phúc

Đức Phật quan niệm về hạnh phúc một cách rất thực tế: như là một điều gì đó thực sự hiện hữu. Để khuyến khích các đệ tử xuất gia của mình đi tìm hạnh phúc trong đời sống xuất thế, Đức Phật dạy rằng:

Có hai loại hạnh phúc: một là trong đời sống thế tục (gihi sukha), và một nữa là trong đời sống xuất gia (pabbajja sukha). Trong hai loại hạnh phúc này, hạnh phúc trong đời sống xuất gia là tốt hơn cả.

Có hai loại hạnh phúc: một phát xuất từ sự thỏa mãn dục lạc (kama sukha), và một nữa phát xuất từ việc từ bỏ thỏa mãn các dục lạc (nekkhamma sukha). Trong hai loại này, hạnh phúc phát xuất từ việc từ bỏ sự thỏa mãn dục lạc là tốt hơn.[3]

Hai mệnh đề này bộc lộ cho ta thấy quan điểm của Đức Phật về hạnh phúc. Như thế, Đức Phật đã nói rõ rằng hạnh phúc có mặt trong đời sống tại gia, và trong việc thỏa mãn các dục lạc. Ngay cả khi có sự hiện diện của các vị tỳ kheo, là những người rất cần được nhắc nhở về những điều bất như ý trong đời sống thế tục, Đức Phật cũng không bao giờ chối bỏ sự thật là hạnh phúc có mặt trong thế giới vật chất và dục lạc. Tuy nhiên, Đức Phật khẳng định rằng hạnh phúc trong đời sống xuất gia thì cao quý hơn.

Nhiều chứng cứ khác có thể được tìm thấy trong các kinh tạng cũng xác định lập trường này. Thật vậy, Đức Phật đã định nghĩa hạnh phúc như sau:

“Hạnh phúc có mặt trong đời sống thế tục… Hạnh phúc đó là gì? Đó là sự thỏa mãn có được qua năm giác quan (kamaguna). Các đối tượng giác quan liên quan đến cái thấy, cái nghe, đến hương, đến vị và sự xúc chạm, là thật sự có mặt. Các đối tượng này quyến rũ, dễ chịu, hấp dẫn, mời gọi và đáng hưởng thụ. Những trải nghiệm có được qua năm giác quan là năm dục lạc mà người ta có thể đạt được trong cuộc sống tại gia. Hạnh phúc màngười ta có được từ sự trải nghiệm năm loại dục lạc này được gọi là hạnh phúc trong đời sống thế tục”.[4]

Như thế, quan điểm của Đức Phật về hạnh phúc trong đời sống thế tục rất rõ ràng và đầy đủ. Người cư sĩ luôn trải nghiệm những sự thỏa mãn giác quan, hay kamaguna, và năm điều lợi ích của chúng: cảnh đẹp, âm thanh êm tai, mùi hương quyến rũ, vị ngon và những xúc chạm dễ chịu. Những lợi ích này được gắn liền với đời sống thế tục, và con người có quyền hưởng thụ chúng.

Thụ Hưởng Những Lợi Ích của Đời Sống Thế Tục

Đức Phật không chỉ chấp nhận sự có mặt của hạnh phúc trong đời sống thế tục, mà Ngài còn khuyến khích điều đó. Mặc dầu Đức Phật nhấn mạnh (nhất là với sự hiện diện của các tỳ kheo) rằng hạnh phúc trong đời sống thế tục thì thứ yếu so với hạnh phúc của đời sống xuất gia, sự khẳng định này không nhằm làm giảm đi giá trị của đời sống thế tục. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là có một thứ hạnh phúc sâu lắng hơn đang chờ đợi những ai sẵn lòng buông bỏ các dục lạc thế gian.

Vì sự xả ly đem đến một trạng thái hạnh phúc vững bền hơn, “hạnh phúc trong sự xả ly” này, hay vimutti sukha, được cho là ‘tốt hơn”. Đây là loại hạnh phúc đã được chính Đức Phật cũng như các đệ tử xuất gia của Ngài chứng nghiệm. Những người xuất gia từ bỏ cuộc sống thế gian, do có ít bổn phận hơn người tại gia, sẽ đối mặt với ít chướng ngại hơn trên đường tìm kiếm sự bình an nội tâm. Trái lại, hạnh phúc trong đời sống tại gia, luôn biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những mối lo toan luôn tiềm ẩn trong cuộc sống đó. Tuy nhiên ngoài điều so sánh duy nhất này, rằng hạnh phúc tâm linh vượt trội hơn hạnh phúc thế tục, không có chứng cứ gì để kết luận rằng Đức Phật chê trách đời sống thế tục hay hạnh phúc trong đời sống đó.

Do Đức Phật không chê trách đời sống thế tục, nên Ngài luôn sẳn sàng khuyên nhủ, ‘tư vấn’ cho những ai muốn biết làm thế nào để cho cuộc sống tại gia của họ được hạnh phúc và thành đạt hơn. Rất nhiều người đến đảnh lễ Đức Phật và thỉnh ý Ngài để được thành công và hạnh phúc. Điều thỉnh cầu sau đây thường xuất hiện trong nhiều bản kinh, phản ảnh nguyện vọng của cộng đồng cư sĩ đối với Đức Phật:

“Bạch Thế Tôn, chúng con là những người tại gia, sống với gia đình, còn ăn mặc đẹp, còn dùng dầu thơm, vòng hoa, và còn chấp nhận vàng bạc. Xin Thế tôn hãy hướng dẫn để chúng con có thể làm cho sự hiện hữu của kiếp sống này và kiếp sống kế tiếp được hạnh phúc”.[5]

Để đáp lại những lời thỉnh cầu này, Đức Phật không bao giờ tỏ ra bất cứ sự coi thường nào, dù nhỏ nhặt, đối với cách sống của những người tại gia và Ngài thường dành cho họ những lời dạy đầy đủ chi tiết về cách làm thế nào cho cuộc sống của họ được tốt đẹp hơn. Đức Phật xem những lời hướng dẫn này như là sampada, những yếu tố đem lại lợi ích cho đời sống thế tục. Bốn mươi lăm năm tích cực trong việc chuyển hóa xã hội, Đức Phật đã để lại những lời dạy vô cùng giá trị trong các kinh tạng –và đó là những điều ta sẽ bàn kỹ trong quyển sách này.

Các Đối Tượng Thính Giả

Dầu Đức Phật có sự quan tâm đáng kể đến hạnh phúc và sự thành công vật chất của hàng cư sĩ, trong kinh tạng rõ ràng cũng có những đoạn với những quan điểm dường như đối nghịch. Các bản kinh đó cho ta cảm giác là cuộc sống thế tục, thế giới vật chất không được tán thán, với khuynh hướng tránh xa các dục lạc thế gian. Tuy quan điểm có vẻ mâu thuẫn này có mặt rải rác trong nhiều bản kinh, chúng ta cần phải xem xét các đoạn kinh này từ cái nhìn về xã hội và lịch sữ thời đó để khám phá ra mục đích và đối tượng thính giả nào các bản kinh này nhằm hướng tới.

Nhiều diễn giải sai lạc về giáo lý của Đức Phật đã phát sinh, cụ thể là do không phân biệt được một bản kinh nào đó được nói cho đối tượng thính giả nào.

Như đã trình bày ở trên, Đức Phật đã dành khá nhiều thời gian để phản biện lại những quan niệm mà các nhà truyền thống và những nhóm cực đoan khác chủ trương. Vì lý do đó Đức Phật cần một cộng đồng dấn thân và chứng đạo. Giáo phái Vệ Đà có các nhà Bà-la-môn, là những nhà đạo hạnh có học, với chủ trương bảo vệ truyền thống một cách quyết liệt. Giáo phái Jain thì huấn luyện nam nữ đệ tử của họ tu khổ hạnh để xây dựng một hệ thống xã hội khắc khe. Ảnh hưỡng bởi cả hai truyền thống này, Đức Phật đã thành lập nên khái niệm tăng đoàn (Sangha). Cộng đồng xuất gia này đáp ứng được một nhu cầu quan trọng: là sự thành lập một cộng đồng hoàn toàn tự nguyện và có khả năng truyền bá những lời Phật dạy đến với xã hội. Những khái niệm về vô thường, khổ và sự xuất ly khỏi đời sống thế tục được sử dụng chính là để rèn luyện và duy trì cộng đồng xuất gia này.

Điều này không có nghĩa rằng Niết Bàn, một trạng thái an lành mà người ta có thể đạt được bằng cách từ bỏ tâm bám víu vào dục lạc thế gian, chỉ là một phương tiện dùng để huấn luyện tăng đoàn. Chúng ta khó mà bỏ qua sự khẳng định liên tục của Đức Phật và các đệ tử của Ngài rằng cuộc sống xả ly, không bám víu của họ tuyệt đối hạnh phúc -một thứ hạnh phúc mà ta có thể trải nghiệm được bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khi ta đã có thể tách mình ra khỏi những cuộc chạy đuổi theo dục lạc thế gian.

Tuy nhiên, không bám víu vào dục lạc thế gian cũng là một phương cách hữu hiệu để rèn luyện, tổ chức và phát triển cộng đồng tăng ni, là nền tảng xã hội của Đức Phật. Khi những sự bất như ý (khổ) trong cuộc sống thế tục được nhấn mạnh và lặp đi lặp lại cho tăng đoàn và cho bất cứ ai có ý muốn bước vào con đường xuất gia, thì những lời dạy này không phù hợp đối với cộng đồng cư sĩ của Đức Phật.

Rèn luyện tâm xả ly khỏi các dục lạc giác quan là cũng là cách để cộng đồng tu sĩ có thể sống xả ly. Trong khi một vị tu sĩ thuộc tông phái khác có thể chọn lựa đời sống tâm linh để phục vụ tốt hơn cho một quyền lực tối thượng nào, thì những động lực tôn giáo như thế không có mặt trong giáo lý của Đức Phật. Đức Phật khuyến khích nam nữ đệ tử của Ngài gia nhập tăng đoàn vì Ngài biết rằng một đời sống xả ly sẽ mang đến cho họ nhiều an lành nội tâm hơn là ở đời sống thế tục. Do đó, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài không ngừng quán tưởng về vô thường và sự bất như ý (khổ) của đời sống thế tục. Sự chuyển đổi thái độ đối với đời sống thế tục khiến cho các đệ tử xuất gia của Ngài trở nên tự tại hơn, và trở thành những vị tăng ni dấn thân; điều này có thể tạo nên những hiệu ứng xã hội tốt đẹp như Đức Phật đã chủ định.

Không phải tất cả mọi lời dạy trong kinh tạng là dành cho tất cả mọi người. Để tránh khỏi những kết luận sai trái này, chúng ta cần phải xác định các đối tượng thính giả khác nhau cho những bài kinh khác nhau. Không thể chỉ vì Đức Phật luôn nhắn nhủ các đệ tử xuất gia của Ngài quán tưởng về vô thường và khổ, mà ta kết luận rằng Ngài đòi hỏi tất cả các đệ tử (tu sĩ cũng như cư sĩ) đều phải tuân theo lời dạy này.

Thực ra, không có chứng cứ gì trong các kinh tạng –nơi tập hợp những lời giảng trung thực nhất của Đức Phật- rằng Ngài kêu gọi các đệ tử cư sĩ phải quán tưởng về vô thường hay khổ. Dĩ nhiên là Đức Phật cũng đề ra các phương pháp hành thiền hữu ích cho cộng đồng cư sĩ, nhưng các phương pháp này không nhằm cản trở hạnh phúc của đời sống thế tục. Trái lại, qua các bản kinh nguyên thủy, ta thấy rằng các đệ tử tại gia được khuyên phải sống cuộc đời của họ một cách an lạc và có ý nghĩa.

Để tiện cho việc thảo luận, chúng ta có thể chia các đối tượng thính giả và tiêu chí của các kinh ra thành ba loại:

  1. Các pháp hướng dẫn dành cho các vị sắp hay đã xuất gia.
  2. Các pháp lý luận, phân tích để phản biện lại với những quan điểm đối nghịch.
  3. Các pháp hướng dẫn và phân tích dành cho cộng đồng cư sĩ.

Trong ba loại này, những bài kinh dành cho cộng đồng xuất gia rõ ràng là nhiều hơn các loại khác. Điều này có thể đưa đến kết luận sai lạc rằng Đức Phật chỉ chú tâm rèn luyện các đệ tử xuất gia của Ngài hơn là giúp đỡ các hàng cư sĩ. Tuy nhiên, dường như có nhiều lý do khác hơn là việc Đức Phật chỉ hướng đến hàng đệ tử xuất gia.

Tại Sao Đời sống Tại Gia Có VẻÍt Quan Trọng Hơn

Tại sao những lời dạy của Đức Phật đối với người cư sĩ dường như không có vị trí quan trọng trong các kinh tạng? Để có thể đưa ra một lời giải thich rõ ràng cho câu hỏi này, chúng ta phải nhìn lại lịch sử thời đó. Điều quan trọng là phải xem ai, trong gần hai mươi sáu thế kỷ, đã lưu truyền những lời dạy của Đức Phật –và bằng cách nào.

Trước tiên, giáo lý của Đức Phật được lưu truyền bởi các vị tỳ kheo. Dầu Đức Phật đã đi hoằng pháp không ngừng nghỉ trong suốt bốn mươi lăm năm và đã thuyết giảng cho biết bao đối tượng, chỉ một số rất ít giáo lý hay thuyết giảng của Ngài được ghi chép lại. Hơn tám mươi phần trăm các kinh trong kinh tạng là dành cho các vị tỳ kheo sống trong các tu viện. Dường như các vị tỳ kheo chỉ quan tâm gìn giữ những gì liên quan đến họ, chứ không phải tất cả những điều Đức Phật đã giáo hóa đám đông quần chúng.

Từ quan điểm của các vị tỳ kheo, ta có thể hiểu được tại sao sự lưu truyền các giáo lý của Đức Phật có phần thiếu sót. Ngay sau khi Đức Phật nhập diệt, các vị trưởng lão tăng cảm thấy nhu cầu bức thiết nhất của họ là duy trì sự thống nhất và kỷ luật trong tăng đoàn. Với cộng đồng tăng đoàn ngày càng phát triển, nhiều quan điểm, phương cách thực hành dị biệt đã len lỏi vào nội bộ tăng đoàn; việc này đòi hỏi phải được giải quyết. Cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên, được thiết lập chỉ ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, được phát khởi một phần cũng bởi những cách hành xử sai lệch của một số vị tỳ kheo. Trong hoàn cảnh này, việc kết hợp, khẳng định mạnh mẽ lại giáo lý của Đức Phật đối với các vị tỳ kheo là cấp thiết. Và các vị tỳ kheo học thuộc lòng các kinh tạng Pali nhằm lưu truyền chúng, dường như đã thêm vào, sửa đổi và loại bỏ nhiều kinh để chỉ nhấn mạnh về giới luật trong tăng đoàn của họ.

Tuy nhiên, phương cách này vô tình đã thay đổi cái nhìn tổng quan về giáo lý của Đức Phật. Trong các kinh tạng được lưu truyền, giáo lý dành cho hàng đệ tử xuất gia có vẻ nổi trội hơn và giáo lý dành hàng cư sĩ tại gia thì không rõ ràng. Do đó, người đọc có thể kết luận một cách sai lệch rằng Đức Phật không quan tâm đến hàng đệ tử tại gia của Ngài.

Việc phân nhóm các kinh cũng khiến cho giáo lý của Đức Phật dành cho hàng đệ tử tại gia có vẻ kém quan trọng. Ở lần kết tập kinh điễn thứ nhất, nhiều kinh được xếp loại tùy theo độ dài, ngắn. Những bài kinh dài của Đức Phật được xếp vào nhóm Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya). Hàng trăm các bài kinh ngắn hơn được đặt trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya). Hàng ngàn các bài kinh khác được xếp đặt tùy theo số thứ tự trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya). Thí dụ, bất cứ bài pháp nào giải thích về hai nhân, haiquả, hai loại người, vân vân, được nhóm lại dưới các bài kinh “Số Hai”. Các tiểu tựa cũng được đánh số để phân loại chi tiết hơn. Lần nữa, sự xếp đặt này khiến cho phần giáo lý dành cho cuộc sống thế tục dường như không quan trọng, hoặc mâu thuẫn. Đối với người đương thời, triết thuyết về khổ của Đức Phật vẫn còn là đề tài nổi trội, dành cho tất cả mọi người.

Những Sự Suy Diễn Sai Lệch Mới

Một số nhà văn và dịch giả trong lịch sử cận đại đã bị kẹt trong sự lầm lẫn này. Họ nghĩ một cách sai lệch rằng con đường mà Đức Phật vạch ra cho hàng đệ tử xuất gia của Ngài, là giáo pháp dành cho tất cả mọi người. Một trong những hậu quả của việc hiểu lầm đó là quan điểm cho rằng ‘Phật giáo bi quan’.

Arthur Schopenhauer, một nhà tư tưởng Đức nổi tiếng, đã thiết lập lý thuyết về bi quan sau khi đọc qua một vài bản kinh Phật giáo đã được dịch. Qua sự trình bày những hiểu biết của ông về Đức Phật, ông muốn gợi ý cho các nhà phê bình so sánh triết lý của ông với giáo lý của Đức Phật. Kết quả là, quan niệm “Phật giáo bi quan” đã được thế giới Tây phương chấp nhận cùng với lý thuyết về bi quan của Schopenhauer.

Hơn thế nữa, gần như tất cả mọi dịch giả của các kinh tạng đều xem thuật ngữ dukkha, đượclặp đi lặp lại trong kinh như là “khổ”, khiến cho người đọc nghĩ rằng Đức Phật xem đời sống thế tục như là khổ đau. Tuy nhiên, dukkhaám chỉ tính chất không thỏa mãn của tâm con người, chứ không chỉ những gì được coi là khổ. Đức Phật sử dụng thuật ngữ này với mục đích hướng các vị tỳ kheo đến Niết Bàn –chứ không phải để hướng dẫn hàng đệ tử tại gia.

Tệ hơn nữa, hàng trăm sách viết về giáo lý của Đức Phật xem những lời dạy của Ngài đối với hàng đệ tử xuất gia là giáo lý chung cho toàn thểcộng đồng Phật tử. Quan niệm sai lầm này đã dẫn đến một kết luận chung rằng Đức Phật không chấp nhận đời sống thế tục và chê trách hạnh phúc trong đời sống đó.

Khám Phá Chân Lý

Nghiên cứu các kinh tạng kỹ hơn sẽ cho chúng ta thấy rõ rằng giáo lý của Đức Phật dành cho hàng cư sĩ rất gần gủi với đời sống thế tục hơn là chúng ta nghĩ. Chúng tôi tìm thấy trong kinh tạng có hơn cả trăm bài pháp, từ những bài dài đến những bài ngắn chỉ có vài câu pháp thoại, đặc biệt nói về đời sống tại gia. Các chương sắp tới trong sách này sẽ đặt trọng tâm vào các bài kinh đó để làm rõ hơn quan điểm của Đức Phật về đời sống thế tục và cũng như sự hướng dẫn của Ngài đối với hàng cư sĩ về sự thành công và hạnh phúc.



[1] Câu trích từ: Tăng Chi Bộ Kinh III: Phẩm Bharandu: Kinh Paticchanna

[2] Tương Ưng Bộ Kinh I: Kosala Samyutta: Kinh Pancaraja, 175-176

[3] Tăng Chi Bộ Kinh II: Phẩm Sukha: 1-2; 1283-1285

[4] Tương Ưng Bộ Kinh IV: Vedana Samyutta: Kinh Niramisa

[5] Tương Ưng Bộ Kinh XI: Sotapatti Samyutta: Kinh Veludvareyya; 1796-1799

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567