Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

XI. Tiết Mục 10 : Trí Đức Của Sự Tu Tập

07/05/201312:16(Xem: 9290)
XI. Tiết Mục 10 : Trí Đức Của Sự Tu Tập

Chương 1: Nói Thể Tánh

Chính Văn.-

Như vậy là đã nói sự thù thắng của đoạn đức của sự tu tập, còn sự thù thắng của trí đức của sự tu tập thì làm sao thấy được? Do 3 loại thân Phật mà biết sự thù thắng của trí đức: một là do tự tánh thân, hai là do thọ dụng thân, ba là do biến hóa thân. Tựu trung, tự tánh thân là pháp thân của chư vị Như lai, do các pháp tự tại chuyển chỗ y cứ; thọ dụng thân là dựa vào pháp thân, ở tại chúng hội của chư Phật nơi tịnh độ [159], thọ dụng pháp lạc đại thừa; biến hóa thân là cũng dựa vào pháp thân, từ Đâu suất thiên cung thị hiện ẩn mất, thọ sinh, thọ dục, vượt thành xuất gia, đến chỗ ngoại đạo, tu các khổ hạnh, chứng đại bồ đề, chuyển đại pháp luân, nhập đại niết bàn.

Tiết 1: Tổng Tiêu

Chính Văn.-

Ở đây có 1 bài chỉnh cú ôn đà nam: Tướng, chứng đắc, tự tại, y chỉ, nhiếp trì, sai biệt, đức, thậm thâm, niệm, nghiệp, nói về (pháp thân của) chư Phật.

Đoạn 1: Chuyển Y

Chính Văn.-

Pháp thân chư Phật lấy gì làm sắc thái? Nên biết pháp thân đại lược có 5 sắc thái. Thứ nhất là sắc thái chuyển y, là chuyển diệt y tha thuộc phần tạp nhiễm chướng ngại, chuyển được y tha thuộc phần thanh tịnh, giải thoát chướng ngại, tự tại với pháp.

Đoạn 2: Bạch Pháp Thành Tựu

Chính Văn.-

Thứ hai là sắc thái bạch pháp thành tựu, là do 6 ba la mật viên mãn mà được 10 tự tại. Tựu trung, sống lâu tự tại, tâm thức tự tại và đồ dùng tự tại, là do viên mãn thí ba la mật; nghiệp tự tại và sinh tự tại là do viên mãn giới ba la mật; thắng giải tự tại là do viên mãn nhẫn ba la mật; nguyện tự tại là do viên mãn tiến ba la mật; thần lực tự tại, thống nhiếp tất cả ngũ thông, là do viên mãn định ba la mật; trí tự tại và pháp tự tại là do viên mãn tuệ ba la mật [160].

Đoạn 3: Vô Nhị

Chính Văn.-

Thứ ba là sắc thái vô nhị, là có không không hai, vì các pháp không thật có mà chân không hiển lộ thì thật có; là hữu vi vô vi không hai, vì không làm nghiệp và phiền não, nhưng tự tại thị hiện là vẫn có làm; là mâu thuẫn đồng nhất không hai, vì chỗ y cứ của chư Phật thì không dị biệt, nhưng vô lượng chúng sinh hiện thành đẳng giác. Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. Vì ngã chấp không còn, nên trong pháp tánh không còn thấy có những cái thân riêng biệt. Nhưng tùy theo cái thân chứng đắc riêng biệt ngày trước, nên thiết lập ra khác nhau. 2. Khác nhau vì chủng tánh, vì không rỗng, vì viên mãn, vì không đầu [161], chỗ y cứ là pháp tánh thanh tịnh thì không riêng biệt, nên chư Phật không phải nhiều mà cũng không phải một.

Đoạn 4: Thường Trú

Chính Văn.-

Thứ tư là sắc thái thường trú, vì chân như thì thanh tịnh, vì bản nguyện dẫn ra, vì việc đáng làm thì không có cái thời kỳ kết thúc.

Đoạn 5: Bất Khả Tư Nghị

Chính Văn.-

Thứ năm là sắc thái bất khả tư nghị, vì chân như thanh tịnh chỉ chứng đắc từ bên trong, vì không có sự ví dụ nào của thế gian có thể ví dụ được, vì không phải là chỗ mà mọi tầm tư có thể thấu đến.

Mục 2: Chứng Đắc

Chính Văn.-

Pháp thân như vậy làm sao chứng đắc lúc đầu? Là do trí căn bản vô phân biệt và trí hậu đắc vô phân biệt vin theo ấn tượng tổng quát của pháp đại thừa, khéo tu với 5 sắc thái tu tập [162], nơi tất cả bồ tát vị thì tích tụ tư lương phước trí, đến kim cang dụ định thì phá được chướng ngại nhỏ nhiệm khó phá, định này vô gián thoát ly tất cả chướng ngại nên chứng đắc chuyển y.

Mục 3: Tự Tại

Chính Văn.-

Pháp thân do mấy thứ tự tại mà tự tại? Đại lược do 5 thứ. Thứ nhất do sự tự tại về quốc độ, về bản thân, về tướng hảo, về âm thanh vô biên, về tướng vô kiến đảnh, ấy là do chuyển chỗ y cứ của sắc uẩn. Thứ hai do sự tự tại về cái vui rộng lớn, không tội lỗi và không số lượng, ấy là do chuyển chỗ y cứ của thọ uẩn. Thứ ba do sự tự tại về hùng biện tất cả danh thân, cú thân và văn thân, ấy là do chuyển chỗ y cứ của tưởng uẩn. Thứ tư do sự tự tại hóa hiện, biến đổi, dẫn nhiếp đại chúng, dẫn nhiếp bạch pháp, ấy là do chuyển chỗ y cứ của hành uẩn. Thứ năm do sự tự tại về đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí, ấy là do chuyển chỗ y cứ của thức uẩn.

Mục 4: Y Chỉ

Chính Văn.-

Pháp thân y cứ vào mấy chỗ? Đại lược vào 3 chỗ. Thứ nhất do những chỗ y cứ của Phật cư trú. Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. Chư Phật được 5 thứ tánh hỷ là do đẳng chứng pháp tánh, (các vị thanh văn) không được 5 thứ tánh hỷ là do không đẳng chứng pháp tánh ấy; nên ai cầu 5 thứ tánh hỷ thì phải đẳng chứng pháp tánh. 2. Một là năng lực vô lượng, hai là sự thành vô lượng, ba là pháp vị viên mãn, bốn là nghĩa đức viên mãn, được 4 sự tánh hỷ này thì tối thắng, không tội lỗi, năm là thấy thường vô tận [163]. Thứ hai do những chỗ y cứ của thọ dụng thân, chỉ để thành thục cho các vị bồ tát. Thứ ba do những chỗ y cứ của biến hóa thân, phần nhiều để thành thục cho các vị thanh văn v/v.

Mục 5: Nhiếp Trì

Chính Văn.-

Nên biết pháp thân do mấy Phật pháp nhiếp trì? Đại lược do 6 Phật pháp. Một, do thanh tịnh, là chuyển a lại da mà được pháp thân. Hai, do dị thục, là chuyển sắc căn mà được trí diể thục. Ba, do an trú, là chuyển sự ở nơi ngũ dục mà được ở nơi 4 vô lượng tâm. Bốn, do tự tại, là chuyển sự tự tại của các nghiệp vụ tiếp thu mà được sự tự tại của cái trí thần thông vô ngại qua lại trong mọi thế giới. Năm, do ngôn ngữ, là chuyển ngôn ngữ hý luận của mọi thứ thấy nghe hay biết mà được sự tự tại của cái trí hùng biện làm cho lòng chúng sinh vui vẻ. Sáu, do bạt tế, là chuyển sự cứu vớt mọi thứ tai nạn lầm lỗi mà thành cái trí cứu vớt tất cả tai nạn lầm lỗi cho tất cả chúng sinh. Nên biết pháp thân được 6 pháp như vậy của Phật thu giữ.

Mục 6: Sai Biệt

Chính Văn.-

Pháp thân chư Phật nên nói khác nhau? hay nên nói không khác? Vì chỗ y cứ (là pháp tánh thanh tịnh), vì ý lạc (cùng muốn cứu độ chúng sinh) và vì việc làm (cứu độ chúng sinh) không khác nhau, nên nên nói không khác; nhưng vô lượng chúng sinh thành bậc đẳng giác, nên nên nói có khác. Nói pháp thân như vậy thì nói thọ dụng thân cũng vậy: ý lạc và việc làm không khác nhau, nên nên nói không khác; nhưng không phải chỉ do chỗ y cứ không khác nhau, mà còn vô lượng thân thể khác nhau (nên nên nói có khác). Nên biết biến hóa thân nên nói như thọ dụng thân.

Đoạn 1: Nói Các Đức

Chính Văn.-

Pháp thân thích ứng với mấy đức? Thích ứng với 20 công đức tối thanh tịnh: 4 tâm vô lượng, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, vô tránh, nguyện trí, 4 trí vô ngại, 6 thần thông, 30 tướng đại trượng phu, 80 tùy hình hảo, 4 tất cả tướng thanh tịnh, 10 lực, 4 vô úy, 3 bất hộ, 3 niệm trú, bạt nhổ tập khí, sự không quên mất, đại bi, 18 pháp bất cọng, nhất thế tướng diệu trí. Ở đây có 16 bài chỉnh cú (nói về 20 công đức mới kê): 1. Kính lạy đấng thương xót chúng sinh, phát khởi 4 thứ ý lạc: muốn chúng sinh hòa đồng cái vui, muốn chúng sinh xa lìa nỗi khổ, muốn chúng sinh không mất hoan hỷ, muốn chúng sinh hưởng mọi lợi lạc [164]. 2. Kính lạy đấng giải thoát hết thảy chướng ngại, bậc thánh hơn cả thế gian, tuệ giác cùng khắp các pháp, đấng tâm giải thoát như vậy [165].

Chính Văn.-

3. Kính lạy đấng diệt được cho chúng sinh tất cả mê hoặc, không còn thừa sót, tổn hại phiền não, thường xuyên thương xót những người còn có ô nhiễm [166]. 4. Kính lạy đấng không còn dụng công, không còn vướng mắc, không bị ngăn ngại, thường xuyên tịch định, giải đáp gạn hỏi [167].

Chính Văn.-

5. Kính lạy đấng đối với sự được nói là giáo pháp sở y và nghĩa lý năng y, đối với sự nói là ngôn từ và trí tuệ, đều sử dụng tuệ giác vô ngại mà thường khéo thuyết pháp [168]. 6. Kính lạy đấng vì khéo giáo hóa chúng sinh nên thị hiện phi hành, biết rõ ngôn âm, biết rõ tâm hành, biết rõ quá khứ, biết rõ vị lai, ra khỏi phiền não [169].

Chính Văn.-

7. Kính lạy đấng khai đạo, chúng sinh nhìn thấy Ngài thì ai cũng biết chắc chắn đó là bậc Thiện sĩ, và nhìn thấy chốc lát cũng tin tưởng sâu xa [170]. 8. Kính lạy đấng chứng đắc (4 sự thanh tịnh toàn bộ), đó là tùy ý giữ hay bỏ sự sống lâu của thân mạng, biến hóa chất và biến đổi hình của thế giới, định tâm và trí giác hoàn toàn tự tại [171].

Chính Văn.-

9. Kính lạy đấng chế ngự ma vương, kẻ lừa dối chúng sinh trong 4 sự: phương tiện, qui y, thanh tịnh và xuất ly [172]. 10. Kính lạy đấng ngoại đạo không thể thắng được, vì tự lợi thì nói về trí đức và nói về đoạn đức, lợi tha thì nói về xuất ly và nói về chướng ngại [173].

Chính Văn.-

11. Kính lạy đấng chế ngự đại chúng, bằng cách ở trong đại chúng thuyết pháp một cách điều phục sự chỉ trích của họ; Ngài lại rời bỏ 2 sự dơ bẩn là ưa khen ghét chê. Ngài không phải giữ gìn cái gì, cũng không có sự quên mất [174]. 12. Kính lạy đấng không lúc nào không biến giác chân lý, nên khắp trong mọi cử động đi đứng nằm ngồi toàn là sự dụng của trí giác viên minh [175].

Chính Văn.-

13. Kính lạy đấng không có sự lãng quên: trong sự lợi ích yên vui cho chúng sinh, việc Ngài làm thường xuyên không lỡ cơ hội và không vô hiệu quả [176]. 14. Kính lạy đấng tâm ý lợi lạc chúng sinh, bằng cách ngày đêm 6 buổi quan sát toàn thể thế giới, sự quan sát đi đôi với tâm đại bi [177].

Chính Văn.-

15. Kính lạy đấng hơn hết tất cả thanh văn duyên giác, do hành do chứng do trí do nghiệp của Ngài [178]. 16. Kính lạy đấng hủy diệt nghi hoạĂc cho hết thảy mọi người ở khắp mọi nơi, vì Ngài đã chứng đắc trí đại bồ đề đủ mọi phẩm chất, nghĩa là thủ đắc tất cả 3 thân [179].

Đoạn 2: Nói 6 Đức

Chính Văn.-

Pháp thân chư Phật, ngoài sự thích ứng với các đức như trên, lại còn thích ứng với 6 đức: tánh, nhân, quả, nghiệp, tương ưng, chuyển hiện. Do đó pháp thân chư Phật viên mãn công đức vô thượng, nên biết như vậy. Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. và 2. (Tánh là chứng đắc) viên thành thắng nghĩa, (nhân là tu tập) tất cả các địa mà xuất sinh, (quả là) đạt đến vị trí trên hết tất cả chúng sinh, (nghiệp là) giải thoát cho tất cả chúng sinh, (tương ưng là) thích ứng với các đức vừa vô tận vừa vô đẳng, (chuyển hiện là hiện biến hóa thân thì) thế gian thấy được, (hiện thọ dụng thân thì) đại hội bồ tát thấy được, (nhưng tự tánh thân thì) không phải nhân loại chư thiên v/v được thấy.

Mục 8: Sâu Xa

Chính Văn.-

Pháp thân chư Phật rất sâu xa, cực kỳ rất sâu xa, trạng thái rất sâu xa ấy làm sao thấy được? Ở đây có 12 bài chỉnh cú: 1. Chư Phật thì không thọ sinh mà thọ sinh, không trú ở mà trú ở, việc làm thì toàn là không còn dụng công, và ăn là sự ăn thứ tư [180]. 2. Không khác nhau mà cùng không số lượng, không số lượng nhưng cùng làm một việc như nhau, và việc làm có loại không thường xuyên, có loại thường xuyên, nên Phật thì đủ cả 3 thân [181].

Chính Văn.-

3. Sự hiện hành đẳng giác thì không phải có, sự giác ngộ toàn bộ thì không phải không; trong mỗi ý nghĩ có vô số lượng chúng sinh do sự có với sự không mà hiển lộ ra (là đức Phật) [182]. 4. Không phải ô nhiễm mà không phải tách rời ô nhiễm, do dục mà được xuất ly; biết dục là không dục, ngộ nhập pháp tánh của dục [183].

Chính Văn.-

5. Chư Phật siêu quá các uẩn mà an trú trong các uẩn: Phật cùng với uẩn không phải đồng nhất không phải dị biệt, không xả bỏ mà khéo vắng lặng [184]. 6. Chư Phật thì việc làm viên dung như nước vào biển cả, nên ta đã làm, ta đang làm, ta sắp làm, chư Phật không có lối tư duy như vậy [185].

Chính Văn.-

7. Chúng sinh vì tội chướng mà không hiện thấy Phật, như đồ bể thì không có nước và được mặt trăng hiện ra. Ánh sáng chánh pháp của Phật tựa như mặt trời soi khắp thế gian, (nhưng chúng sinh tội chướng thì như người mù không thấy được ánh sáng ấy).[186]. 8. Hoặc thị hiện thành đẳng giác, hoặc thị hiện nhập niết bàn, như lửa khi đỏ khi tắt. (Nhưng lửa khi đỏ khi tắt mà) không bao giờ không có, chư Phật cũng vậy, vì Phật thì thường trú [187].

Chính Văn.-

9. Trong pháp phi thánh, trong nhân loại và các nẻo ác, trong pháp phi phạn hạnh, Phật an trú trong tự thể tối thắng [188]. 10. Phật hiện hành khắp nơi mà cũng không hiện hành một nơi nào; thân Phật hiện hành mọi nơi, sự đó không phải 6 giác quan biết được[189].

Chính Văn.-

11. Phiền não bị đàn áp chứ không bị hủy diệt, như độc tố bị chú lực vô hiệu hóa. Nên bồ tát để lại phiền não, cho đến khi phiền não hết hẳn thì chứng được trí toàn giác của Phật [190]. 12. Phiền não trở thành giác phần, sinh tử mà làm niết bàn: vì đủ đại phương tiện như vậy nên Phật thì bất khả tư nghị [191].

Chính Văn.-

Nên biết 12 bài chỉnh cú như trên là nói sự sâu xa có 12 thứ: sự sâu xa về sinh, trú, nghiệp và ăn, sự sâu xa về an lập, số lượng và việc làm, sự sâu xa về hiện thành đẳng giác, sự sâu xa về ly dục, sự sâu xa về đoạn diệt các uẩn, sự sâu xa về thành thục chúng sinh, sự sâu xa về hiển hiện của Phật, sự sâu xa về thị hiện thành đẳng giác và nhập niết bàn, sự sâu xa về an trú, sự sâu xa về thị hiện bản thân, sự sâu xa về đoạn diệt phiền não, sự sâu xa về bất khả tư nghị.

Đoạn 1: Nói Về Niệm Phật

Chính Văn.-

Nếu các bồ tát niệm pháp thân của Phật, thì nên niệm bằng mấy mặt? Đại lược mà nói, thì bồ tát niệm pháp thân của Phật bằng 7 mặt sau đây. Một là chư Phật hoàn toàn tự tại đối với tất cả các pháp, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì thần thông vô ngại đối với toàn thể các thế giới hệ. Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Chúng sinh vô lượng, nhưng có người đủ mọi chướng ngại, có người thiếu các yếu tố, lại có những người bị 2 loại quyết định là nghiệp chướng và báo chướng, đối với mọi người như vậy thì Phật không thể tự tại. Hai là thân chư Phật thường trú, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì chân như đã vô gián thoát hết dơ bẩn. Ba là chư Phật tối thắng, không tội lỗi, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì tất cả phiền não chướng và sở tri chướng đều đã thoát ly. Bốn là chư Phật không còn dụng công, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì không còn dụng công mà mọi việc Phật làm đều không ngừng nghỉ. Năm là chư Phật hưởng thụ rất giàu vui, nên niệm Phật như vậy, vì tịnh độ của Phật thì rất giàu vui. Sáu là chư Phật rời hết ô nhiễm, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì sống trong đời mà việc đời không thể ô nhiễm. Bảy là chư Phật làm thành việc lớn, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì thị hiện thành đẳng giác, thị hiện nhập niết bàn, v/v, tất cả chúng sinh ai chưa thành thục thì Phật làm cho thành thục, ai thành thục rồi thì Phật làm cho giải thoát. Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. và 2. Tự tại, thường trú, thanh tịnh, không còn dụng công, cho chúng sinh đại pháp lạc, sống khắp nơi mà không bị ô nhiễm, lợi ích đồng đẳng cho bao chúng sinh: chư Phật viên mãn những mặt như vậy, người có trí nên niệm chư Phật về mọi mặt ấy.

Đoạn 2: Nói Về Tịnh Độ

Chính Văn.-

Sắc thái của Phật độ thanh tịnh, làm sao biết được? Như trong phẩm tựa của kinh Bách thiên, thuộc bồ tát tạng, đã nói. Rằng đức Thế tôn ở trong đại cung điện, nơi được cấu trúc bằng 7 chất liệu quí báu rực rỡ hơn hết, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên quốc độ (1. hiển sắc viên mãn), nơi có vô số khu vức được trang sức tuyệt diệu và vị trí xen nhau (2. hình sắc viên mãn), nơi mà hình lượng tràn đầy một cách vô giới hạn và khó ước tính (3. phần lượng viên mãn), nơi mà hình lượng ấy siêu việt lĩnh vực 3 cõi (4. phương sở viên mãn), nơi được tạo thành bởi loại thiện căn tối thượng và siêu việt thế gian (5. nhân viên mãn), nơi lấy tâm thức cực trong sạch và cực tự tại mà làm bản thể (6. quả viên mãn), nơi đức Thế tôn đóng đô (7. chủ viên mãn), nơi các đại bồ tát vân tập (8. phụ dực viên mãn), nơi vô số 8 bộ thường xuyên tùy tùng (9. quyến thuộc viên mãn), nơi sống bằng sự vui thích mùi vị chánh pháp quảng đại (10. nhiệm trì viên mãn), nơi xuất phát mọi sự ích lợi chân thật cho chúng sinh (11. sự nghiệp viên mãn), nơi dứt tuyệt phiền não, tai nạn (12. nhiếp ích viên mãn), nơi tách rời các loại ma (13. vô úy viên mãn), nơi được sự trang hoàng của Phật, một sự trang hoàng vượt quá mọi sự trang hoàng (14. trú xứ viên mãn), nơi lấy đại niệm, đại tuệ và đại hạnh mà làm đường đi (15. lộ viên mãn), nơi lấy sự chỉ vĩ đại và sự quán tinh tế mà làm cỗ xe (16. thừa viên mãn), nơi lấy sự không vĩ đại, sự vô tướng vĩ đại và sự vô nguyện vĩ đại mà làm cửa vào (17. môn viên mãn), nơi kiến thiết trên hoa sen chúa làm bằng ngọc lớn và trang trí bởi vô số lượng công đức (18. y trì viên mãn). Như thế đó là nói về 18 sự viên mãn [192]của Phật độ thanh tịnh. Thêm nữa, thọ dụng Phật độ thanh tịnh như vậy thì một chiều sạch mầu, một chiều yên vui, một chiều không tội, một chiều tự tại.

Lược Giải.-

Tịnh độ được nói ở đây là thọ dụng độ, nói xác hơn là tha thọ dụng độ. Tịnh độ ấy là Hoa tạng thế giới (tượng trưng bằng đại cung điện) trên Liên hoa đài tạng (tượng trưng bằng đài hoa sen). Tịnh độ ấy có 18 sự viên mãn và 4 sự một chiều.

Mục 10: Nghiệp

Chính văn.-

Nên biết pháp giới chư Phật, trong mọi thì gian, làm được 5 việc. Một là cứu vớt tai nạn cho tất cả chúng sinh, vì chúng sinh gặp Phật thì thoát được mọi tai nạn đui, điếc, điên, cuồng, v/v. Hai là cứu vớt đường dữ, vì cứu vớt chúng sinh ra khỏi chỗ dữ mà đặt vào chỗ lành. Ba là cứu vớt sự phi phương tiện, vì làm cho ngoại đạo bỏ những phi phương tiện cầu được giải thoát, mà đem họ để vào giáo pháp của đức Như lai. Bốn là cứu vớt thân kiến, vì trao cho họ con đường siêu thoát 3 cõi. Năm là cứu vớt cỗ xe được đi, vì cứu vớt các vị bồ tát muốn đi theo các cỗ xe khác, các vị thanh văn thuộc loại không cố định, đem họ đặt cả vào trong đại thừa, cho họ tu theo cỗ xe vĩ đại. Cũng nên biết nghiệp dụng của chư Phật trong 5 việc này là rất bình đẳng. Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Vì nguyên nhân, vì thân thể, vì chức nghiệp, vì khuynh hướng, vì hoạt động, vì 5 sự này riêng biệt nên việc làm khác nhau. Thế nhân vì 5 sự này mà việc làm khác nhau, chư Phật không có 5 sự này nên không phải việc làm của chư Phật khác nhau.

Tiết 1: Về Nhất Thừa

Chính Văn.-

Nếu pháp thân, cái thân thích ứng đầy đủ với công đức, của chư Phật không phải chung có với thanh văn và duyên giác, thì vì ý gì Phật nói về nhất thừa? Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. Vì dẫn dắt cho một loại thanh văn và giữ gìn cho một số bồ tát, nghĩa là do những người không cố định mà Phật nói về nhất thừa [193]. 2. Vì pháp tánh, vô ngã và giải thoát thì đồng đẳng, vì những người thuộc loại không cố định, vì thủ đắc 2 ý lạc, vì thanh văn và duyên giác có một số chỉ là hóa thân, vì sự rốt ráo, vì 8 lý do này mà Phật nói nhất thừa [194]

Tiết 2: Về Đồng Thời Có Nhiều Phật

Chính Văn.-

Như vậy là chư Phật đồng nhất pháp thân, thế nhưng Phật lại có nhiều vị, lý do có thể thấy được là vì sao? Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Trong một thế giới không thể có 2 đức Phật, (nói như vậy vô lý), vì đồng thời có vô lượng người viên thành quả vị Phật đà. Nếu nói vô lượng người ấy tuần tự kế nhau thành Phật thì vô lý, nên đồng thời thành ra có nhiều Phật.

Tiết 3: Về Niết Bàn Không Niết Bàn

Chính Văn.-

Làm sao biết, trong pháp thân, Phật không rốt ráo có nhập niết bàn, cũng không rốt ráo không nhập niết bàn? Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Vì tất cả chướng ngại đều đã giải thoát, nên Phật rốt ráo có nhập niết bàn; nhưng việc làm của Phật thì không bao giờ kết thúc, nên Phật rốt ráo không nhập niết bàn.

Tiết 4: Về Thọ Dụng Thân Không Phải Tự Tánh Thân

Chính Văn.-

Tại sao thọ dụng thân không phải chính là tự tánh thân? Vì 6 lý do. Một, vì thọ dụng thân là sắc thân có thể thấy được. Hai, vì thọ dụng thân thì ở trong vô số chúng hội của chư Phật khác nhau có thể thấy được. Ba, vì thọ dụng thân tùy sự thấy của thắng giải mà tự tánh không cố định có thể thấy được. Bốn, vì thọ dụng thân thì mỗi cái thấy khác nhau, tự tánh biến đổi có thể thấy được. Năm, vì thọ dụng thân thì bồ tát thanh văn, cùng với chư thiên v/v, mỗi chúng hội xen lẫn với nhau có thể thấy được. Sáu, vì a lại da với các chuyển thức chuyển y không khác nhau, sự phi lý ấy có thể thấy được. Nên nói thọ dụng thân của Phật chính là tự tánh thân của Phật là không đúng lý [195].

Tiết 5: Về Biến Hóa Thân Không Phải Tự Tánh Thân

Chính Văn.-

Tại sao biến hóa thân không phải chính là tự tánh thân? Vì 8 lý do. (Một và Hai), vì các vị bồ tát từ lâu xa đến nay đã được định bất thoái, vậy sinh trong Đâu suất và sinh trong nhân loại thì không đúng lý. (Ba), vì các vị bồ tát từ lâu xa đến nay thường nhớ đời trước, vậy không biết chính xác về văn học toán học, các ky?nghệ gồm có ky?nghệ ấn loát, về hưởng thụ trần dục, thì không đúng lý. (Bốn), vì các vị bồ tát từ lâu xa đến nay đã biết giáo pháp ác thuyết và giáo pháp thiện thuyết, vậy đến hỏi ngoại đạo thì không đúng lý. (Năm), vì các vị bồ tát từ lâu xa đến nay đã khéo biết chánh pháp tam thừa, vậy tu khổ hạnh của tà kiến thì không đúng lý. (Sáu), vì các vị bồ tát bỏ cả vạn ức đại lục Thiệm bộ, chỉ thành đẳng chánh giác và chuyển chánh pháp luân nơi một chỗ thì không đúng lý. (Bảy), nếu nói không cần thị hiện thành đẳng chánh giác, chỉ đem hóa thân mà làm việc Phật ở mọi nơi khác, vậy thì đáng lẽ chỉ thành đẳng chánh giác ở Đâu suất, và tại sao không qui định trong tất cả mọi đại lục Thiệm bộ cùng lúc đều có Phật xuất hiện; đã không qui định như vậy thì không giáo cũng không lý. Dầu có nhiều hóa thân cũng không trái gì với lời nói không có 2 đức Như lai cùng xuất hiện (trong một thế giới), như 2 vị luân vương không cùng xuất hiện (một lúc một chỗ), vì lẽ một 4 đại lục cũng nói là một thế giới. Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Hóa thân của Phật, (và những hóa thân khác) [196], nhiều chỗ nhập thai cùng lúc, vì để biểu thị đây là đấng Nhất thế chủng trí thành đẳng chánh giác. (Tám), vì lợi lạc cho hết thảy chúng sinh mà phát nguyện tu hành, chứng đại bồ đề, vậy rốt ráo niết bàn thì không đúng lý, vì hạnh nguyện không hiệu quả thì thành ra có lỗi [197].

Lược Giải.-

Đoạn này chống lại lý thuyết tiểu thừa nói hóa thân đã là pháp thân. Đức Phật mà nay gọi là đức Phật trong lịch sử, đại thừa nói là hóa thân, chưa phải pháp thân.

Tiết 6: Về 2 Thân Là Thường

Chính Văn.-

Thọ dụng thân và biến hóa thân của Phật đã là vô thường, thì tại sao trong kinh nói thân Phật là thường? Vì 2 thân nương dựa pháp thân, mà pháp thân là thường. Thêm nữa, vì thọ dụng thân thì thường hằng thọ dụng đại thừa pháp lạc, không có ngừng nghỉ, nhưng, như nói thường hưởng vui vẻ (mà thật không phải hưởng luôn); vì biến hóa thân thì luôn luôn hóa hiện lợi ích chúng sinh, không có vĩnh tuyệt, nhưng, như nói thường cho người ăn (mà thật không phải cho luôn), sự thường của thân Phật nên biết cũng là như vậy.

Tiết 7: Về Biến Hóa Thân Không Thường Trú

Chính Văn.-

Do 6 lý do mà biến hóa thân của chư Phật thị hiện không thường còn. Một là việc làm đã hoàn tất, chúng sinh thành thục đã giải thoát cả. Hai là muốn làm cho người bỏ cái tâm lý không ưa niết bàn, thường cầu cái thân thường trú của Phật. Ba là muốn làm cho người bỏ cái tâm lý khinh thường đức Phật, ý thức chánh pháp sâu xa. Bốn là muốn làm cho người khát ngưỡng đức Phật một cách sâu xa, nếu để họ thấy luôn thì sinh ra nhàm chán. Năm là muốn làm cho người bản thân tinh tiến, biết đấng nói chánh pháp thì khó mà gặp được. Sáu là muốn làm cho người cấp tốc thành thục, bản thân tinh tiến, không cởi bỏ cái ách chánh pháp. Ở đây có 2 bài chỉnh cú: 1. và 2. Vì việc làm đã xong xuôi, vì để cho người bỏ cái tâm lý không ưa niết bàn, bỏ cái tâm lý khinh thường đức Phật, mà khát ngưỡng đức Phật một cách sâu xa, mà trong tâm tự sinh tinh tiến, vì làm cho người cấp tốc thành thục, vì những lý do ấy mà chủ trương biến hóa thân của Phật không rốt ráo thường trú.

Tiết 8: Về Thành Phật Là Phải Có Dụng Công

Chính Văn.-

Pháp thân chư Phật vô thỉ đến giờ phi diể biệt, phi số lượng, như vậy không cần vì chứng đắc pháp thân ấy mà chúng sinh phải dụng công!? Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Phật chứng đắc pháp thân phi dị biệt, phi số lượng, sự chứng đắc ấy là nhân tố cho chúng sinh. Nếu chúng sinh loại bỏ sự tinh tiến dụng công, thì sự chứng đắc ấy chẳng bao giờ thành nhân tố gì cả. Do đó, loại bỏ nhân tố tinh tiến dụng công thì không đúng lý.

*

Chính Văn.-

Nhiếp đại thừa, một phẩm trong kinh Đại thừa a tì đạt ma, tôi là Vô trước, đã lược giải hoàn tất.

dịch:7/6-19/7/2535. duyệt: 22/7/2535.



[1]Luận này có 11 phần, ngoài 10 phần là 10 tiết mục, còn có phần 1 này là cương yếu. Nay tôi đổi đi một chút, gọi phần này là phần đầu, còn 10 phần sau đúng theo số 10 tiết mục. 

[2]Là các vị Bồ tát ở địa vị cao, đã ngộ nhập đại thừa, mà ngộ nhập một cách khéo léo. 

[3]Thù thắng, thù là lớn, lạ, thắng là hơn, siêu việt. Thù thắng là rất hơn, tối siêu việt. 

[4]Ghi chú này có 4 điều. Điều 1, dịch như vậy là dịch tắt, dịch rõ thì, thí dụ tiết mục môểt phải là ngôn ngữ thù thắng về tiết mục thù thắng "căn cứ của các pháp sở tri". Điều 2, ý nghĩa của 10 tiết mục sẽ nói trong chương 2 dưới đây. Điều 3, 10 tiết mục này thực sự chỉ có 7, vì 3 tiết mục sáu đến tám có thể nói chung là 3 thứ tăng thượng giới định tuệ. Điều 4, 10 tiết mục có thể phân ra 3 loại: cảnh, gồm có 2 tiết mục một và hai; hành, gồm có 6 tiết mục ba đến tám; quả, gồm có 2 tiết mục chín và mười - cảnh là chân lý luận, hành là phương pháp luận, quả là mục đích luận.

[5]Sở tri nghĩa là được biết đến. Các pháp sở tri, chữ pháp nghĩa là khái niệm, một pháp là một khái niệm. Cây bút là một pháp, mà cây bút dài hay ngắn, trắng hay đen, cũ hay mới, tốt hay xấu, cũng toàn là một pháp. Một ý tưởng là một pháp, mà ý tưởng ấy thiện hay ác, đúng hay sai, lợi hay hại, mê hay ngộ, cũng toàn là một pháp. Thế nên pháp bao gồm tất cả có không, tâm vật, nhiễm tịnh, thiện ác, mê ngộ, thánh phàm. Các pháp ấy là những đối tượng được biết, và luận này nói là 3 tánh, đó gọi là các pháp sở tri. Căn cứ của các pháp sở tri, căn cứ là căn bản; căn bản của các pháp sở tri là a lại da. A lại da nên nói là chủ thể của các thức, là chủ thể của các pháp, hơn là nói một thức. A lại da có nghĩa là không mất, là kho tàng; nghĩa như vậy là cái nghĩa chủ thể. 

[6]3 tánh (tính cách) là các pháp sở tri. Nay hãy nói đơn giản nhất, thì 3 tánh là nói tính cách không gian của các pháp. Mỗi pháp đều cùng lúc có 3 tánh, và được ví dụ như sau. Như sợi giây gai phải do chỉ gai mới có, đó là y tha (do yếu tố mới có); sợi giây gai ấy, trong đêm tối hay từ đằng xa, mắt nhìn không rõ thì thấy là con rắn, đó là biến kế (đối tượng chỉ tưởng tượng); sợi giây gai ấy nếu ban ngày và mắt nhìn rõ thì thấy là chỉ gai, đó là viên thành (đối cảnh rất chính xác). (Nhiếp luận nói sợi giây gai ấy nếu được biết rõ là sắc hương vị xúc, đó là viên thành). 

[7]Nói a lại da hay nói 3 tánh như trên, cũng đã thấy là duy thức. Nên duy thức là chân lý của các pháp sở tri. Duy thức, nói chính xác thì a lại da là căn bản của các pháp, nên gọi là duy thức; nói theo ngộ nhập thì ngộ nhập duy thức là ngộ nhập 3 điều: 1. ngộ nhập các pháp không thật, 2. ngộ nhập 2 phần tướng kiến hình thành ra nhau, 3. ngộ nhập các pháp (mà Nhiếp luận gọi là 11 thức) toàn là liên hệ với thức, nên gọi là duy thức. Nhận thức được đạo lý duy thức tức là ngộ nhập chân lý của 3 tánh (các pháp sở tri). 

[8]6 độ là thí (cống hiến) giới (khuôn phép) nhẫn (chịu đựng) tiến (tiến tới) định (chuyên nhất) tuệ (minh sát). Độ là ba la mật đa, là đáo bỉ ngạn, có nghĩa là toàn vẹn, hoàn hảo. Do 6 độ mà có sự ngộ nhập duy thức, lại chính do sự ngộ nhập duy thức mà hoạt dụng 6 độ: 6 độ là nhân mà cũng là quả của sự ngộ nhập. Như vậy cũng đủ thấy ngộ nhập ở đây không phải chỉ là lý giải, tâm đắc, chỉ là kiến thức, mà là sự thể nhập và thể hiện của toàn bộ thân tâm đối với đạo lý duy thức. 

[9]10 địa là 10 cấp độ gần cuối cùng của Bồ tát vị; 10 cấp độ này mới thật hoạt dụng về 6 độ, ngộ nhập sâu vào đạo lý duy thức. 

[10]Giới định tuệ (hay giới tâm tuệ) là 3 học hay tăng thượng học (3 môn tu học hay 3 môn tu học có tính cách tăng lên). Nhưng 3 học ở đây là của 10 Bồ tát vị, nên giới là bồ tát giới, định là các đại định, tuệ là trí vô phân biệt. Các đại định thì quan trọng nhất là thủ lăng nghiêm và hư không tạng. Thủ lăng nghiêm dịch nghĩa là kiện hành (đi tới mạnh mẽ). Hư không tạng là kho tàng hư không. Trí vô phân biệt, vô phân biệt có nghĩa là không còn có sự phân biệt biến kế: cái trí không còn biến kế, gọi là trí vô phân biệt. 

[11]Phật có 3 đức: đoạn đức (giải thoát cứu cánh) trí đức (tuệ giác cứu cánh) ân đức (hóa độ tất cả). Ở đây nói về 2 đức một và hai, còn đức ba thì gồm trong đức hai. Đoạn đức ở đây là đại niết bàn, tức niết bàn vô trú: sự giải thoát không vướng mắc vào sinh tử và vào chính niết bàn. Trí đức ở đây là đại bồ đề, gồm cả 4 trí tức là 3 thân. 

[12]Cái trí Nhất thế trí, nhất thế trí là trí tuệ toàn giác, là toàn giác. Cái trí toàn giác gọi là đại bồ đề (đại giác). 

[13]Chỉnh cú, chính văn là tụng, tức như thi, câu và chữ không so le. Nhưng ở đây, và sau đây, tôi không dịch ra chỉnh cú, mà chỉ dịch ra văn bình thường. 

[14]Hai cực đoạn thêm bớt là nơi y tha, cố chấp biến kế là thêm, không biết viên thành là bớt. 

[15]Sở thủ cũng là sở tri mà nói về biến kế; khéo biết sở thủ là biết sở thủ duy thức. 

[16]Ba đại kiếp vô số là các bồ tát địa phải trải qua 3 giai đoạn thì gian dài (mà dài đến bao nhiêu là tùy sự nỗ lực và ngộ nhập mau hay chậm). Ba giai đoạn là một diệt ngã chấp phần phân biệt, hai diệt ngã chấp phần câu sinh và pháp chấp phần phân biệt, ba diệt pháp chấp phần câu sinh; một ở sơ địa, hai ở bát địa, ba ở thập địa. 

[17]Bài chỉnh cú này có nghĩa a lại da là căn bản của các pháp, do đó mà có sinh tử, cũng do đó mà có niết bàn. Do a lại da mà có niết bàn, điều này có 2 nghĩa. Nghĩa một, do a lại da mà có sinh tử, sinh tử hết là niết bàn, nên nói a lại da là căn bản của sinh tử niết bàn. Nghĩa hai, chủng tử các pháp sinh tử và niết bàn đều là a lại da, nên nói a lại da là căn bản của sinh tử và niết bàn. Nghĩa một sâu hơn; như cái tay chỉ xuống cũng chính là cái tay chỉ lên: hết chỉ xuống thì chỉ lên, hết sinh tử thì niết bàn. 

[18]Chủng tử, nghĩa đen là hạt giống, nghĩa chính là tiềm năng. Sóng đôi với chủng tử là hiện hành, tức là hiện tượng. Bàn tay có tiềm năng viết chữ là chủng tử, bàn tay ấy viết ra chữ là hiện hành. Chủng tử và hiện hành đối với a lại da cũng tương tự như vậy. 

[19]Đáng lẽ nói các pháp hoặc nói các pháp nhiễm tịnh. Nhưng chỉ nói các pháp tạp nhiễm là vì a lại da là chỗ dựa của các pháp tạp nhiễm, mà các pháp này huân tập và tăng trưởng a lại da; còn các pháp thanh tịnh tuy cũng lấy a lại da làm chỗ dựa mà là pháp đối trị và chuyển y a lại da. Như cái tay có thể chỉ lên (tịnh), nhưng bây giờ đang chỉ xuống (nhiễm), thì, dẫu biết toàn thể cái tay chỉ xuống cũng chính là toàn thể cái tay sẽ chỉ lên, nhưng đang chỉ xuống thì mệnh danh là a lại da, và các pháp dựa vào nó, huân tập cho nó, cùng nó làm nhân duyên cho nhau, là các pháp tạp nhiễm. 

[20]Đoạn này cắt nghĩa a lại da là không mất (vô một), là tàng (thâu tàng). Tàng có sở tàng, năng tàng và chấp tàng. Sở tàng là a lại da làm quả cho các pháp, tiếp nhận các pháp huân tập chủng tử (tức hiện hành sinh chủng tử). Năng tàng là a lại da làm nhân cho các pháp, duy trì chủng tử phát sinh các pháp (tức chủng tử sinh hiện hành). Chấp tàng là a lại da là tự ngã mà chúng sinh tự ý thức, chấp lấy. 

[21]Dòng nước dốc là nước thác ghềnh đổ mạnh xuống, trông như tấm vải. Chủng tử mà hiện hành thì cũng như vậy. Hãy lấy ví dụ khác. Như những hình ảnh trên màn ảnh: chúng do vô số hình ảnh liên tiếp hiện hành mà thành. Vũ trụ của duy thức là như vậy, toàn do chủng tử hiện hành. 

[22]A đà na nghĩa chính là lấy (thủ). A đà na là đặc biệt nói về sinh mệnh. Sinh mệnh chúng ta từ khi mở đầu trong thai mẹ (kiết sinh) cho đến lúc kết liễu một đời, nó là tổng thể của các giác quan (sắc căn), là sinh mệnh của chúng ta (tự thể). Sinh mệnh ấy là tổng thể hiện hành của tổng thể chủng tử, hiện hành trong một thời kỳ (đời sống). Sinh mệnh ấy, a đà na là chủ thể. Điều phải nói thêm, là trên đây chỉ nói một đời. Nhưng đối với a đà na thì mỗi đời chỉ là một giai đoạn. Giai đoạn thì liên tục: sự liên tục ấy, chủ thể cũng là a đà na. 

[23]Ý có 2: ý vô gián và ý ô nhiễm. Thứ nhất, ý vô gián là nói chung với tiểu thừa mà vẫn có khác tiểu thừa. Tiểu thừa cũng nói ý (trong 18 giới, tức 6 căn, 6 cảnh và 6 thức, thì ý là ý căn trong 6 căn). Nhưng hỏi ý đó là gì, thì tiểu thừa bảo nó không là gì khác hơn chính là bản thân ý thức mà giai đoạn trước sinh rồi diệt đi, nhường chỗ cho giai đoạn sau sinh ra, cái giai đoạn trước đó gọi là ý vô gián, và là ý căn trong 6 căn. Đại thừa cũng nhận có cái ý vô gián như vậy, nhưng nói rằng đó là đẳng vô gián duyên chứ không phải tăng thượng duyên. Mà ý căn thì phải là tăng thượng duyên. Nên ý căn phải biệt lập, không phải chỉ là vô gián diệt. Như vậy nói về ý vô gián, cái ý thứ nhất, mà đại thừa đã khác tiểu thừa. Thứ hai, ý ô nhiễm là ý thức về tự ngã: ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái. Chính cái ý ô nhiễm này, vì vậy, làm cho tâm thức tạp nhiễm, và đó là cái ý chỉ đại thừa nói đến. 

[24]Sáu lý do chứng minh ý ô nhiễm ở đây toàn là lấy 6 giáo nghĩa của tiểu thừa. Lý do 1 vô minh bất cọng và lý do 6 ngã chấp thường có, là có ý ô nhiễm (ý thức tự ngã) mới có vô minh và ngã chấp hiện hành trong mọi tâm thức thiện, ác và vô ký. Lý do 2 đồng pháp 5 thức là 5 thức có 5 căn làm câu hữu y, thì ý thức cũng vậy, phải có ý căn (ý ô nhiễm) làm câu hữu y. Lý do 3 huấn thích danh từ là, như nhãn thức có nghĩa là thức của nhãn căn, ý thức cũng vậy: ý thức là thức của ý căn. Lý do 4, 2 định khác nhau là có ý nhiễm ô thì diệt tận định mới khác vô tưởng định, vì diệt tận định không còn ý ô nhiễm. Lý do 5 sinh trời vô tưởng không còn ý thức mà vẫn còn ngã chấp: ngã chấp ấy chính là ý ô nhiễm. 

[25]Tất cả tâm thức ở đây là tâm thức thiện, ác, vô ký; mê, ngộ. 

[26]Tính chất của tâm (gọi là tánh) có 4 loại: thiện, ác, hữu phú vô ký (trung tính mà có ô nhiễm) vô phú vô ký (trung tính mà không ô nhiễm). Ý ô nhiễm vì là vi tế bằng hữu, như phiền não bị định chế ngự, nên thuộc về loại thứ 3. 

[27]Đoạn này chứng tỏ kinh của các bộ phái không phải đồng nhất. 

[28]Chính văn là 3 tướng: tự tướng, nhân tướng, quả tướng. Nói tự tướng, quả tướng, nhân tướng, mới thuận nghĩa hơn. 

[29]Coi lại ghi chú 19 . 

[30]Cùng sinh cùng diệt là 2 cái ướp với nhau mà ngấm ngầm biến đổi, sinh và mất liên tục, nên cái này mới có cái kia. 

[31]Xưa người ta đem mè trộn với hoa thơm, ủ lại, đến khi hoa rã ra thì đem mè ấy ép lấy dầu, dầu này thành dầu thơm 

[32]A lại da làm nhân tố cho các pháp là chủng tử sinh hiện hành, các pháp làm nhân tố cho a lại da là hiện hành sinh chủng tử. 

[33]Duyên có 4, và lấy nhãn thức làm mẫu mà nói, thì (một) nhãn thức ấy do chủng tử của nó hiện hành mà có, đó là nhân duyên (cái nhân làm duyên tố); (hai) nhưng chủng tử nhãn thức hiện hành được là phải có nhãn căn, đó là tăng thượng duyên (dữ kiện thêm lên làm duyên tố); (ba) phải có sắc cảnh, đó là sở duyên duyên (đối cảnh làm duyên tố); (bốn) và phải do chính bản thân nhãn thức mà giai đoạn trước mất đi để chỗ cho giai đoạn sau sinh ra, đó là đẳng vô gián duyên (sự mất đi của giai đoạn trước làm duyên tố). Như vậy chỉ có chủng tử sinh hiện hành (chủng tử nhãn thức sinh nhãn thức) và hiện hành sinh chủng tử (nhãn thức sinh chủng tử nhãn thức) mới là nhân duyên, ngoài ra là 3 duyên khác, không phải nhân duyên. 

[34]Dịch sát và đủ là duyên khởi ra những tự thể đáng ưa và đáng ghét khác nhau. Tự thể là sinh mạng (và thế giới của sinh mạng), nói chung là quả báo. 

[35]Tự tánh (bản thể) là phái Sổ luận. Túc tác (việc làm cũ) là định mạng luận. Tự tại (chúa trời Đại tự tại) là nhất thần giáo. Thật ngã (ngã là phạn, phạn là ngã, thật ngã: phạn ngã) là phái Vệ đà. Không có nguyên nhân là tự nhiên luận. 

[36]Tác giả: chủ thể tạo tác. Thọ giả: chủ thể sử dụng. 

[37]Coi lại chính văn 2 loại duyên khởi. Tự tánh là loại duyên khởi thứ nhất, tự thể là loại duyên khởi thứ hai. Tự tánh là đặc tính khác nhau, tự thể là sinh mạng khác nhau. 

[38]Chủng tử ở ngoài là hạt giống nói theo nghĩa đen. Chủng tử ở trong là năng tính gọi theo tiếng ví dụ. 

[39]Để hiểu 3 bài chỉnh cú này, phải biết trước 3 pháp số sau đây. Thứ nhất là chủng tử có 6 đặc tính: một là sát na diệt, là chủng tử sinh diệt trong từng sát na; hai là quả câu hữu, là chủng tử câu hữu với căn và cảnh; ba là hằng tùy chuyển, là chủng tử liên tục với hiện hành; bốn là tánh quyết định, là chủng tử cùng tính chất với hiện hành; năm là đãi chúng duyên, là chủng tử đủ mọi duyên tố mới hiện hành; sáu là dẫn tự quả, là chủng tử chỉ dẫn ra hiện hành của nó. Thứ hai là năng huân có 4 đặc tính: một là có sinh diệt, là có sinh diệt chuyển biến; hai là có thắng dụng, là có cường lực tư duy và thiện ác; ba là có tăng giảm, là có khi tăng khi giảm; bốn là hòa hợp với sở huân, là cùng thân cùng lúc với sở huân. Năng huân, như vậy, là 6 thức trước. Thứ ba là sở huân có 4 đặc tính: một là kiên trụ, là liên tục ổn định; hai là vô ký, là vô ký trung tính; ba là khả huân, là khả năng thọ huân; bốn là hòa hợp với năng huân, là cùng thân cùng lúc với năng huân. Sở huân, như vậy, là thức thứ 8. Các bài tụng 1, 2 và 3 là nói chủng tử có 6 đặc tính và sở huân có 4 đặc tính. 

[40]Tiểu thừa cho 6 thức trước là sở huân, nhưng 6 thức ấy có 3 sự sai biệt là căn, cảnh và tác ý đều khác nhau, nên không có sự tương ưng với năng huân; tiểu thừa lại cho 6 thức trước, ngay bản thân mà giai đoạn sau là sở huân, nhưng 2 giai đoạn trước và sau đồng loại mà không câu hữu, nên cũng không thích ứng với đặc tính của sở huân. 

[41]Chủng tử có 2 lực, lực năng sinh và lực năng dẫn, năng sinh là sinh ra hiện hành, năng dẫn là duy trì hiện hành. Cái cây khô rồi, cái thân chết rồi, mà còn một thì gian mới hủy diệt hẳn, thì đó là lực năng dẫn. 

[42]Hai loại chủng tử cùng có 6 đặc tính, nhưng đứng về mặt huân tập thì 2 loại chủng tử rất khác nhau. Chủng tử ở ngoài có thứ có huân tập (như hoa ướp mè) có thứ không huân tập (như bùn mọc sen). Còn chủng tử ở trong nhất thiết phải có sự huân tập. Lấy thí dụ như sự đa văn. Nếu sự huân tập đa văn không có thì không thể có kết quả của sự đa văn (là ký ức và tác ý đúng lý), lại làm đa văn thì mất kết quả, không làm đa văn mà được kết quả, thì rất sai lầm. 

[43]Chủng tử ở ngoài thực ra là hiện hành, do chủng tử ở trong làm nhân duyên, nghĩa là do a lại da tiếp nhận huân tập mà có chủng tử (chủng tử ở trong) và hiện hành (chủng tử ở ngoài). Chủng tử ở ngoài mọc lên cây cối, đó là hiện hành sinh hiện hành (là tăng thượng duyên, không phải nhân duyên). 

[44]Thức nhân duyên là a lại da, làm nhân duyên cho các pháp; thức thọ dụng là 6 thức trước, thọ dụng quả báo khổ vui. Sự thọ dụng của thức thọ dụng là diễn biến qua 3 tâm sở: thọ dụng (thọ) phân biệt (tưởng) suy động (hành, đặc biệt là tư trong hành). 

[45]Chữ các pháp ở đây là chữ các pháp tạp nhiễm đã nói trong những đoạn trước, các pháp này là chỉ cho chuyển thức (thức thọ dụng). Tàng thức ở đây là a lại da (thức nhân duyên). Hai thức này làm nhân làm quả cho nhau là một, các pháp đối với tàng thức, thì các pháp năng huân (nhân) tàng thức sở huân (quả), hai, tàng thức đối với các pháp, thì chủng tử tàng thức (nhân) hiện hành các pháp (quả). 

[46]6 thức, phải nói rõ là bản thân của 6 thức (thức thọ dụng); bản thân 6 thức, ngoài nhân duyên đã nói, còn có 3 duyên nữa (nghĩa là đủ cả 4 duyên). 

[47]3 sự duyên khởi ở đây là ngoài sự duyên khởi thứ nhất duyên khởi ra tự tánh khác nhau (ở đây gọi là cùng tận sinh tử) và sự duyên khởi thứ hai duyên khởi ra tự thể khác nhau (ở đây gọi là đường lành đường dữ, dịch sát là quả báo đáng ưa hay không đáng ưa), ở đây thêm 1 sự duyên khởi nữa, đó là khả năng thọ dụng, để nói về thức thọ dụng. Nói 3 sự duyên khởi này có đủ 4 duyên là nói tổng quát, phân tách thì là nhân duyên (sự duyên khởi cùng tận sinh tử), là tăng thượng duyên (sự duyên khởi đường lành đường dữ), là 3 duyên tăng thượng duyên, sở duyên duyên và đẳng vô gián duyên (sự duyên khởi khả năng thọ dụng). Còn nhân duyên là sự duyên khởi cùng tận sinh tử đã nói. 

[48]Phải bổ túc như vầy nữa mới rõ: mà ý thức thì không hoàn toàn ô nhiễm, thì có gián đoạn, thì có đối cảnh rõ rệt. 

[49]Thực là ăn. Ăn ở đây có nghĩa là khả năng duy trì sự sống. Với cái nghĩa như vậy, ăn có 4 thứ. Một là đoàn thực, ăn bằng thực phẩm. Hai là xúc thực, ăn bằng sự tiếp xúc đối cảnh của các giác quan. Ba là tư thực, ăn bằng sự tư duy. Bốn là thức thực, ăn bằng sự duy trì căn thân của thức dị thục. 

[50]Thức chủng tử dị thục, hay thức chủng tử thức dị thục, là danh từ gọi đặc tính làm nhân và đặc tính làm quả của a lại da. 

[51]Cái thiện tâm lệ thuộc cõi Dục là chính cái tham lệ thuộc cõi Dục vừa nói ở trên. Cái tham ấy bây giờ được gọi là thiện tâm là vì nó ham muốn ly dục mà siêng tu. 

[52]Chánh văn (nghe chánh pháp một cách chính xác) do pháp giới tối thanh tịnh làm nhân, do trí vô phân biệt làm quả. Đẳng lưu là bản thân (ở đây là pháp giới tối thanh tịnh) thế nào thì chảy ra như vậy. 

[53]Thế gian và xuất thế ở đây là hữu lậu và vô lậu. 

[54]Sữa hòa với nước mà ngỗng chỉ uống sữa, còn nước vẫn còn, điều này tôi thực không biết và chưa thấy. 

[55]Diệt định là gọi tắt diệt tận định hay diệt thọ tưởng định. Tiểu thừa thì đệ tam quả sắp lên, đại thừa thì bồ tát bất thoái sắp lên, mới nhập được định này. Nhập định này thì cảm giác (thọ) và tư tưởng (tưởng) đều không còn hiện hành. 

[56]Trước đã nói 2 giai đoạn trước sau thì không phải là câu hữu để huân tập thành chủng tử. 

[57]Danh ngôn huân tập, danh ngôn là các pháp. Các pháp mà gọi là danh ngôn, là vì các pháp là những khái niệm. Khái niệm là danh ngôn. Danh ngôn có 2 loại: chính khái nhiệm là biểu thị các pháp, nên gọi nó là danh ngôn hiển cảnh; rồi ngôn ngữ văn tự truyền đạt danh ngôn hiển cảnh thì gọi là danh ngôn biểu nghĩa. Nói danh ngôn huân tập cũng như nói các pháp huân tập, huân tập thành ra chủng tử tương lai của các pháp, các pháp tương lai do chủng tử ấy mà hiện hành. Nên danh ngôn huân tập là duyên khởi thứ nhất, duyên khởi ra tự tánh khác nhau. 

[58]Ngã kiến huân tập là mạt na (ý ô nhiễm) ý thức a lại da làm tự ngã. Ý thức tự ngã này huân tập thành ra chủng tử thấy có mình có người, tự thể (sinh mạng) khác nhau. 

[59]Hữu chi huân tập, hữu chi là 12 nhân duyên. Do hữu chi huân tập, bằng các nghiệp phước, phi phước và bất động, mà có ra tự thể (và quả báo của tự thể) là 3 cõi 6 đường đáng ưa và đáng ghét. Ngã kiến huân tập và hữu chi huân tập là duyên khởi thứ hai, duyên khởi ra tự thể khác nhau. 

[60]Thế giới ở ngoài, chính văn là khí thế gian, là thế giới làm đồ dùng của tự thể. Tự thể, chính văn là nội xứ, là cái tổng thể gồm cả 6 giác quan. 

[61]Cọng kiết là kiết sử ai cũng có như nhau. Cái gọi là cọng kiết, phải thêm: thế giới ở ngoài do cọng kiết thành ra. 

[62]Tướng (sắc thái) cũng gọi là tánh (tính cách). Tên tắt 3 tướng là y tha, biến kế, viên thành. 

[63]Phân biệt hư vọng: sự phân biệt không chính xác. 

[64]Có 11 thức tất cả. Hãy tạm gác chữ thức để cắt nghĩa 11 thứ đã. Thân (thân) là cái tổng thể gồm có 5 giác quan. Chủ thể của thân (thân giả) là ý ô nhiễm. Chủ thể của sự tiếp nhận (thọ giả) là ý vô gián diệt. Được tiếp nhận (bỉ sở thọ) là 6 cảnh. Tiếp nhận (bỉ năng thọ) là 6 thức. Thì gian (thế) là vị lai hiện tại quá khứ liên tục. Số mục (số) là những số mục hàng lẻ, hàng chục, v/v. Thế giới cư trú (xứ) là thế giới chúng sinh cư trú. Nói năng (ngôn thuyết) là ngôn ngữ xuất từ thấy nghe hay biết. Mình người (tự tha sai biệt) là bản thân với tha thân. Đường lành đường dữ (thiện thú ác thú tử sinh) là những nẻo đường sinh tử. Tất cả 11 thứ này đều gọi là thức, là vì liên hệ đến thức, do thức biểu thị. Tất cả 11 thức này là y tha khởi, bao gồm hết thảy mọi sự sai biệt của nhân sinh vũ trụ. 

[65]Hiện tượng thác loạn (loạn tướng) là sắc, bản thể thác loạn (loạn thể) là thức. Sắc với thức này là khách thể với chủ thể mà từ đó có mọi sự thác loạn. 

[66]Ở đây, trước đây, và sau đây còn nữa, nên nhớ chữ các thức là 11 thức, tức là tất cả các pháp.

[67]Phải để ý mấy danh từ. Sắc thức là sắc cảnh, nhãn thức là nhãn căn, thức của nhãn thức là nhãn thức; pháp thức là pháp cảnh, ý thức là ý căn, thức của ý thức là ý thức ... 

[68]Một là cái trí biết mâu thuẫn, là có thật như nước mà người thấy nước, quỉ thấy máu, trời thấy cung điện: thật thì sao một mà thấy khác nhau như vậy? Hai là không thật như việc đã qua, sẽ đến, hay chiêm bao, không thật mà vẫn có ấn tượng được biết: thật thì sao không mà thấy có như vậy? Ba, nếu đối cảnh là thật thì cái trí của chúng ta cũng thật rồi, cần gì phải dụng công tu tập? Bốn, thì có 3: (1) nếu là thật thì sao định quán xanh thấy xanh cả? (2) nếu là thật thì sao quán pháp, nghĩ gì là thấy liền? (3) nếu là thật thì sao trí vô phân biệt thấy không có gì thật hết? 

[69]Ý thức ở đây là ý và ý thức. 

[70]Sợi giây gai là sở biến kế, con rắn do thấy lầm sợi giây là biến kế chấp, vậy sợi giây với con rắn là một hay khác nhau? sở biến kế với biến kế chấp là một hay khác nhau? Thật ra con rắn là đối tượng nhận thức hóa, không thể nói là một hay khác nhau. 

[71]Sai biệt cũng gọi là cọng tướng. Thí dụ nói sắc vô thường, thì sắc là tự tánh, vô thường là sai biệt (thế nhưng sự sai biệt ấy lại có như pháp khác, nên cũng gọi là cọng tướng, đối lại tự tánh gọi là tự tướng). 

[72]Bản thể vốn thanh tịnh, gọi là tự tánh viên thành; tự tánh viên thành ấy đã hiển lộ thì gọi là thanh tịnh viên thành. 

[73]Như hư không vốn trong sáng, chỉ vì mây che mà u ám, tịnh trừ mây che thì trong sáng hoàn trong sáng. Đó là sự trong sáng vốn có, không phải mới làm ra. 

[74]Ở đây chỉ kể có 2 pháp.

[75]Trong 8 ví dụ, sóng nắng là từ đằng xa nhìn hơi nắng bốc lên, thấy như sóng dợn, làm cho nai khát sinh ra cái tưởng là nước. Ảnh tượng, ở đây là hình ảnh trong gương. Bóng sáng là do ánh sáng mà có những bóng in trên vách trên đất. Tiếng dội là ở trong hang núi mà kêu lên thì tiếng dội lại y như tiếng kêu. Trăng nước là bóng trăng dưới nước, nước trong và lặng thì thấy được. Biến hóa là nhà ảo thuật làm ra ảo thuật mà người thích.

[76]Địa giới, hay địa đại, là 1 trong 4 thứ thuộc vật lý cấu thành vũ trụ; 4 thứ ấy là cố thể (địa giới) dịch thể (thủy giới) nhiệt lực (hỏa giới), động lực (phong giới). Nguyên ngữ là kiên, thấp, noãn, động (còn địa, thủy, hỏa, phong, tức là đất, nước, lửa, gió, chỉ là nói theo kiến thức phổ thông). 

[77]Phật nói ngài là đức Thắng quán (Tỳ bà thi), đó là căn cứ vào sự bình đẳng giữa các đức Phật. Nói niệm hồng danh và phát nguyện mà có kết quả lớn, đó là căn cứ vào thì gian cuối cùng. Nói phụng sự nhiều Phật mới hiểu đại thừa, đó là căn cứ vào sự hiểu cao sâu. Với 1 pháp mà khi khen khi chê, đó là căn cứ vào ích lợi khác nhau cho người nghe. 

[78]Về 4 bí mật, 2 thứ đầu của luận này phải hội ý với luận Đại thừa trang nghiêm kinh mới rõ. Bí mật dẫn vào, là thế nhân rất sợ vô ngã nên phải căn cứ thế tục đế mà nói có ngã để dẫn dắt họ; còn tiểu thừa ngộ nhập vô ngã nhưng rất sợ vô pháp, nên phải căn cứ thế tục đế mà nói có pháp để dẫn dắt họ. Bí mật về tướng là nói 3 tánh mà chính ra cho thấy vô tánh. Bí mật đối trị là nói pháp môn có đến 84 ngàn chỉ vì đối trị 84 ngàn phiền não. Bí mật chuyển biến là nói với ngụ ý bằng chữ nghĩa khác, ví dụ nói như bài chỉnh cú đã dẫn. Nghĩa bài ấy như sau. Kiên cố là ngoan cố, khó điều phục. Không kiên cố là không còn sự kiên cố nói trên, tức là định. Biết được định mới là kiên cố thật. Sự đảo ngược là thường lạc ngã tịnh (đảo ngược vô thường bất lạc vô ngã bất tịnh). Khéo sống trong sự đảo ngược là sống trong sự đảo ngược mà không đảo ngược (vẫn sống bằng vô thường bất lạc vô ngã bất tịnh). Cùng cực sự não loạn của phiền não là những khổ hạnh khó nhẫn khó làm; mà nhẫn và làm được cả nên được vô thượng giác. 

[79]Duyên khởi cốt nói về sở tri y (a lại da). Duyên sinh cốt nói về sở tri tướng (3 tự tướng). Cả 2 tiết mục này là nói về cảnh (chân lý luận). Còn ngữ nghĩa là nói về hành (phương pháp luận) và quả (mục đích luâển). Do vậy, 3 tiết mục này bao quát toàn bộ đại thừa. 

[80]Do danh ngôn mà sinh ra các pháp, đó là nói dị thục làm nhân cho chuyển thức; danh ngôn lại do các pháp huân tập, đó là nói chuyển thức làm nhân do dị thục. 

[81]Thức là phân biệt, tướng là sở phân biệt, kiến là năng phân biệt. 

[82]Chỗ dựa là y tha, sở chấp là biến kế, pháp tánh là viên thành. 

[83]Phàm với thánh như nhau, ở chỗ nơi y tha ai cũng được với không được: khi phàm phu chưa thấy chân lý, thì nơi y tha họ được biến kế tức không được viên thành ; khi thánh giả đã thấy chân lý, thì nơi y tha họ được viên thành tức không được biến kế. 

[84]Công đức là thành quả, phẩm chất. 

[85]Chính văn này của Giải thâm mật, Hoa nghiêm. 

[86]32 pháp này thấy trong kinh Đại bảo tích. 

[87]Dịch sát là nay tôi mượn cái trí làm gì. 

[88]Cũng có thể dịch là không phải mượn tới lòng thương xót. 

[89]Ý thức, chính văn là ý ngôn, một tên gọi khác của ý thức, có nghĩa ý thức hay phân biệt danh ngôn, nên gọi là ý ngôn. 

[90]Thắng giải: lý giải một cách thượng thặng. 

[91]Dịch sát là người hơn người đã có cái ý lạc ấy. 

[92]Trí tuệ khác là kiến thức hiểu sai về đại thừa, là nghi hoặc không tin đại thừa là Phật thuyết. 

[93]Pháp chấp ở đây là cái thường gọi là pháp ái. 

[94]Hiện tượng hiện tiền là thế giới mình đang tiếp xúc, hiện tượng xác lập là ảnh tượng trong định. 

[95]Tầm tư là suy tìm. Danh và nghĩa ở đây là danh và nghĩa của các pháp, thí dụ bút là danh, để viết là nghĩa. Tự tánh và sai biệt là đặc tính và chi tiết; tự tánh và sai biệt ở đây là của danh và nghĩa; thí dụ bút mực hay bút chì (tự tánh) và mới hay cũ (sai biệt), và đó là tự tánh và sai biệt của nghĩa; còn tên để gọi tự tánh và sai biệt ấy của nghĩa là tự tánh và sai biệt của danh. Tầm tư là suy tìm 4 thứ trên toàn là giả thiết, chỉ là ý thức. 

[96]Thật trí, nói đủ là như thật trí, cái biết đúng như sự thật, về danh nghĩa tự tánh sai biệt. 

[97]Duy thức, phải nói đủ là vô nghĩa duy thức (duy thức vì không thật). Không thật ở đây là ý thức giả thiết, là không thể thủ đắc. 

[98]Muốn hiểu chỗ này thì phải coi lại tiết mục 2 (mục lược giải y tha và tiết đa thức luận). Ở đây chỉ ghi chú rằng nói ngộ nhập là ngộ nhập duy thức, và ngộ nhập duy thức là qua 3 sự: một là ngộ nhập duy thức, vì các pháp toàn là không thật; hai là ngộ nhập 2 tướng (tướng phần và kiến phần), vì các pháp toàn là năng thủ sở thủ (nhận thức đã đối tượng hóa và đối tượng đã nhận thức hóa); ba là ngộ nhập nhiều thứ, vì các pháp chỉ là lắm sự thể của thức (tức 11 thức). 

[99]Muốn hiểu chỗ này thì phải coi lại tiết mục 2 (mục lược giải y tha và tiết đa thức luận). Ở đây chỉ ghi chú rằng nói ngộ nhập là ngộ nhập duy thức, và ngộ nhập duy thức là qua 3 sự: một là ngộ nhập duy thức, vì các pháp toàn là không thật; hai là ngộ nhập 2 tướng (tướng phần và kiến phần), vì các pháp toàn là năng thủ sở thủ (nhận thức đã đối tượng hóa và đối tượng đã nhận thức hóa); ba là ngộ nhập nhiều thứ, vì các pháp chỉ là lắm sự thể của thức (tức 11 thức). 

[100]Có tất cả 10 tên. Pháp là pháp chấp. Ngã là ngã chấp. Giáo pháp là năng thuyên. Nghĩa lý là sở thuyên. Đại lược là nói tóm. Phong phú là nói rộng. Căn bản là tự mẫu. Ô nhiễm là phàm. Thanh tịnh là thánh. Cứu cánh là toàn bộ. Có người nói đây là 10 tên của pháp tánh viên thành. Nếu hiểu như vậy thì phải nói đây là pháp tánh viên thành được gọi theo các cái được biết (tựa như nói chân như có 7 thứ, nói thức có 11 thứ). 

[101]Sở y ở đây là a lại da hay y tha. 

[102]Thuận với phần quyết trạch, tức là da hành vị, phần sau của giải hành vị. Đối lại, phần đầu của giải hành vị là tư lương vị (thuận với phần giải thoát). 

[103]Cái nhẫn các pháp không thâểt, nhẫn nghĩa là chấp nhận, bao gồm cái nghĩa chịu đựng, nhận định. Cái nhẫn các pháp không thật là cái nhẫn các pháp duy thức. 

[104]Quyết định về các pháp không thật, quyết định là cao hơn nhẫn. 

[105]Nhập vào một phần chân thật, chân thật là viên thành, ở đây chứng mà chưa chứng được toàn phần. 

[106]Bên cạnh hiện quán (hiện quán biên), hiện quán là tuệ giác vô lậu chứng được chân thật; đang là phương tiện của tuệ giác, gần được tuệ giác ấy, thì gọi là bên cạnh hiện quán. 

[107]3 loại thân Phật là đại bồ đề, được chuyển y là đại niết bàn, nói theo ở đây. 

[108]Thường sinh trong các đại tập hội của chư Phật là cách nói sinh tịnh độ, mà là tha thọ dụng độ, của Phật. 

[109]Là danh ngôn phân biệt, tự tánh phân biệt, sai biệt phân biệt. 

[110]Biến kế không thì y tha cũng không (cảnh không thì thức cũng không). 

[111]Là hiện chứng một phần pháp tánh thôi, như trước đây mới nói. 

[112]Là hư vọng phân biệt (thức).

[113]Sự không tán động là định ba la mật. Biến giác chân lý là tuệ ba la mật. 

[114]Chưa định làm cho định, định rồi làm cho thoát, là định ba la mật. Khai ngộ cho thành thục, là tuệ ba la mật. 

[115]Có cái là thí mà không phải là ba la mật, là sự thí không có 6 sự hơn hết. Có cái là ba la mật mà không phải là thí, là 5 ba la mật khác có 6 sự hơn hết. Có cái là thí mà cũng là ba la mật, là sự thí có 6 sự hơn hết. Có cái không phải là thí mà cũng không phải là ba la mật, là 5 ba la mật không có 6 sự hơn hết.

[116]Là định. 

[117]Biết đúng chân thật là trí căn bản, biết đúng phẩm loại là trí hậu đắc. Ở đây chân thật là tánh như sở hữu, phẩm loại là tánh tận sở hữu. 

[118]Tu tập bằng sự nỗ lực nổi lên là, thí dụ thí ba la mật, cụ bị mọi yếu tố về thí mà làm sự ấy. Tu tập bằng sự thắng giải là như trong chương 1 nói do cái thắng giải đối với giáo pháp Phật dạy mà tu tập. Tu tập bằng sự tác ý là cũng như trong chương ấy nói do những tác ý mến trọng, tùy hỷ và vui thích mà tu tập. Tu tập bằng sự phương tiện khéo léo là như đoạn 1 của mục 2 nói là được trí vô phân biệt tiếp nhận mà tu tập, hoặc cũng như trong chương 1 nói thường xuyên, không cách hở, thích ứng phương tiện mà tu tập. Tu tập bằng sự thành tựu việc làm là chính Phật hoạt dụng liên tục và tự nhiên về 6 ba la mật mà Ngài đã viên mãn. 

[119]Nhẫn pháp (đế sát pháp nhẫn) là chấp nhận thật tướng các pháp đã quán sát ky? 

[120]Tiến áo giáp là tinh tiến như cái áo giáp bảo vệ cho người tu hành khỏi bị sát hại bởi phiền não, nhất là sự nhác. 

[121]Định an trú là định làm cho thân tâm khinh an, định dẫn phát là định dẫn ra thần lực, định thành sự là thần lực ấy làm mọi sự lợi ích.

[122]Tuệ là trí vô phân biệt; trí ấy ở giai đoạn tu tập thì gọi là da hành, ở giai đoạn chứng đắc thì gọi là căn bản, ở giai đoạn hoạt dụng thì gọi là hậu đắc. 

[123]Ý câu hỏi cho thấy muốn nói 2 bên, ba la mật và thiện pháp khác, thống thuộc lẫn nhau. Nhưng lời đáp thì chỉ nói ba la mật thống nhiếp thiện pháp. Ý lời đáp đúng hơn. Tựu trung, chữ sắc thái, chính văn là tướng, có người giải thích tướng đây là thực chất : thực chất của ba la mâểt là tuệ ba la mật, bởi vì rời tuệ ba la mật thì không một pháp nào thành ba la mật cả. Giải thích như vậy tuy chính xác, nhưng không sát văn ý ở đây. 

[124]Nói điển hình như thí ba la mật thì sở triể của pháp này là tham lẫn; tham lẫn có 3, là bản thân của nó, là những gì làm nguyên nhân của nó và những gì làm hậu quả của nó, tất cả 3 thứ như vậy đều bị thí ba la mật đối trị. Các pháp ba la mật khác cũng vậy, suy ra thì biết. 

[125]Ngũ minh (5 minh xứ): công xảo minh (công nghệ học) y phương minh (y dược học) thanh minh (ngữ văn học) nhân minh (luận lý học) nội minh (Phật học). 

[126]Nghĩa lợi: lợi ích chân thật. 

[127]Da hành, nghĩa đen là làm thêm, thêm lên việc làm, tức là nỗ lực, cụ bị, vận dụng phương cách (nên có chỗ dịch là phương tiện). 

[128]Địa (đất) là tiếng ví dụ; 10 địa là 10 cấp độ cuối cùng của bồ tát vị, ở đó là chỗ công đức sinh ra, đứng vững và lớn lên, nên ví duÍ như đất. Đặc chất của 10 địa là trí vô phân biệt, mọi công đức khác chỉ là tùy thuộc trang hoàng. 

[129]10 vô minh, có chỗ kê như sau: 1. tính dị sinh, 2. 3 nghiệp tà hạnh của chúng sinh, 3. tính chậm lụt, 4. hiện hành câu sinh phiền não nhỏ nhiệm của thân kiến, 5. nhập niết bàn của thanh văn, 6. hiện hành tướng thô, 7. hiện hành tướng tế, 8. vô tướng còn dụng công, 9. không làm viêc lợi ích chúng sinh, 10. chưa được tự tại trong các pháp. 

[130]10 sắc thái pháp tánh: 1. phổ biến: toàn thể nhất vị, 2. tối thắng: 3 nghiệp thanh tịnh, 3. thắng lưu: thù thắng lưu xuất, 4. không nhiếp thọ: không tiếp nhận ngã ngã sở, 5. không sai biệt: sinh tử với niết bàn không thấy sai biệt, 6. không nhiễm tịnh: không còn thấy tạp nhiễm với thanh tịnh có sai biệt, 7. mỗi pháp không sai biệt: các pháp mỗi pháp đều không có sai biệt, 8. không tăng giảm và thân tự tại độ tự tại: thân hình và thế giới biểu hiện tùy ý, 9. trí tự tại: tuệ giác tự tại, 10. nghiệp tự tại: 3 nghiệp tự do, tổng trì tự tại: nắm giữ không mất, chánh định tự tại: định lực bất động.

[131]Đẳng trì: 4 thiền, đẳng chí: 4 vô sắc định. 

[132]Là 37 bồ đề phần pháp. 

[133]Là trí quán 12 chi duyên khởi. 

[134]Là 4 vô ngại trí. 

[135]Sao chép, hiến cúng, chuyền cho, lắng nghe, dở đọc, học nhớ, chỉ dạy, phúng tụng, suy nghĩ, tu tập. Pháp hạnh, gọi đủ là chánh pháp hạnh : việc làm đối với chánh pháp. Pháp số 10 pháp hạnh ở trên là trích luận Biện trung biện.

[136]Tổng tập là tập hợp giáo pháp đại thừa mà quán sát theo tổng tướng. Vô tướng là trong pháp tánh, quán các pháp không thể thủ đắc. Không dụng công là nhiệm vận tu chỉ quán, không cần phải tác ý và dụng công. Xí thạnh là sự tu tập trên, thêm và hơn lên trong từng ý nghĩ. Không mừng đủ là sự tu tập trên, bước tới và bước lên mãi, không tự hào và tự mãn. 

[137]Tiêu dung chỗ dựa của mọi thứ thô nặng, thì chỗ dựa là a lại da, thô nặng là chủng tử 2 chướng. Xa rời các tướng thì các tướng là các tướng hý luận, những khái niệm nhị biên. Biết được cái ánh sáng chánh pháp lớn lao thì ánh sáng ấy là tuệ vô ngại, thông đạt pháp tánh viên minh. Hiện hành vô tướng thuận với phần thanh tịnh, thì vô tướng là trí vô phân biệt, phần thanh tịnh là chân tánh xuất triền. Viên mãn thành tựu pháp thân, thì đó là mục đích chính, vì mục đích ấy mà 10 địa sự tu tập của địa trước là nhân thù thắng của địa sau. 

[138]Nói mỗi địa tu mỗi độ là nói theo sự tăng thắng. 

[139]Tư trạch lực: năng lực tư duy quyết trạch. 

[140]Nói các địa tu các độ là nói theo sự chung thông. 

[141]Kho tàng ba la mật: kho tàng đại thừa. 

[142]Chính văn là bổ đặc dà la, tạm dịch là người. Nhưng không phải là 5 loại người, mà là mọi người đều trải qua 5 giai đoạn, nên đổi chữ ấy rõ hơn. 

[143]Có người nói chữ tương tự không có. Nay xét có thể có thật, và có với cái nghĩa giá tội tương tự, tức tuồng như giá tội, chứ không phải thật là giá tội. 

[144]Phương tiện khéo léo là phương tiện do đại bi làm động cơ và do đại trí dẫn đạo

[145]Đại thừa quang minh: ánh sáng của giáo pháp đại thừa. Tập phước định vương: chúa tể trong sự tập hợp phước đức. Hiền thủ: từ bi giữ gìn cho chúng sinh. Kiện hành: tinh tiến hùng mãnh. 

[146]Muốn tháo cái chốt lớn thì lấy cái chốt nhỏ đóng vào đầu chốt ấy, chốt ấy ra thì chốt nhỏ cũng ra. 

[147]Là chủng tử. 

[148]Là sinh đâu tùy ý. Nhưng tiểu thừa chỉ nhập niết bàn mà không có năng lực này. 

[149]Là đến đâu tùy ý. 

[150]Hãy tạm theo 1 bản chú thích như sau: 1 là cho đến nỗi không thấy cho chút gì, 2 là cho đến nỗi không còn thích cho mới cho, 3 là cho đến nỗi không đợi tin Phật mới cho, 4 là cho đến nỗi không cần tự khích lệ mới cho, 5 là cho đến nỗi không có chút thì gian cách hở, 6 là cho theo định lực phân thân vô số mà cho, 7 là cho đến nỗi keo lẫn không dung sự dơ bẩn nào nơi tâm trí, 8 là cho đến nỗi không đứng vào niết bàn rốt ráo, 9 là cho đến nỗi không cho sự tham lẫn còn tự do trong sự cho, 10 là cho đến nỗi không đứng nơi niết bàn vô tận. 

[151]Pháp của Phật ở đây là những phẩm chất và thành quả của Ngài, như 10 lực, 4 vô úy, v/v. 

[152]Có 16 chi tiết tất cả, sẽ được giải thích sau đây. 

[153]Tư lượng ở đây là ý thức tự ngã. 

[154]Nghĩa là sinh trong tịnh độ thuộc loại tha thọ dụng độ, hoặc sinh trong tịnh độ thuộc loại biến hóa độ. 

[155]Nhân tố là do quá khứ đa văn huân tập có sức mạnh, nên đời này không cần hiện duyên mà vẫn phát sinh, tức như thường nói đốn ngộ. Dẫn ra là quá khứ có đa văn huân tập mà đời này vẫn phải nhờ hiện duyên cần thiết mới phát sinh. Tập luôn là quá khứ đa văn huân tập hoặc quá kém hoặc không có, đời này phải tu tập luôn luôn mới phát sinh. Cả 3 loại do sự phát sinh khác nhau mà khác nhau. 

[156]Đã đầy đủ là ngoại đạo sinh Vô tưởng thiên hay Phi phi tưởng xứ, đời sống không có tác ý, và họ thỏa mãn, cho là đã đủ rồi. Không thác loạn là tiểu thừa niết bàn không còn phân biệt thác loạn về thường lạc ngã tịnh. Không hý luận là bồ tát không còn danh ngôn huân tập, chứng pháp tánh vô phân biệt. Cả 3 loại này do sự vô phân biệt khác nhau mà khác nhau.

[157]Thông suốt là quán chân như bằng ấn tượng mà thông suốt chân như. Tùy nghĩ là theo sự thông suốt mà truy niệm chân như. Thiết lập là thiết lập danh tướng mà tuyên thuyết cho người về chân như. Tổng hợp là tổng hợp các pháp mà quán sát. Đúng ý là muốn gì cũng biến hóa được. Cả 5 loại này do sự tư trạch khác nhau mà khác nhau. 

[158]6 bài chỉnh cú này là nói lại 4 trí đã nói trong tiết mục 2. Bài 1 là nói cái trí biết sự mâu thuẫn, bài 2 là nói cái trí biết không có đối cảnh mà thức vẫn có, bài 3 là nói cái trí biết đáng lẽ không dụng công mà vẫn không thác loạn. Các bài 4, 5 và 6 là nói 3 trí của cái trí tùy chuyển: bài 4 là thứ nhất, cái trí tùy thắng giải lực của định tự tại mà đối cảnh biểu hiện; bài 5 là thứ hai, cái trí tùy tác ý lực của tu pháp quán mà đối cảnh biểu hiện; bài 6 là thứ ba, cái trí tùy trí vô phân biệt mà thấy đối cảnh biểu hiện không có gì là thật cả. Muốn rõ, coi lại chính văn và ghi chú 66. 

[159]Chúng hội của chư Phật, hay đại tập hội của chư Phật, là đại hội gồm toàn chư vị bồ tát; thân Phật mà đại hội này nhìn thấy là tha thọ dụng thân của Phật; tịnh độ mà có đại hội này chính là tha thọ dụng độ của Phật. 

[160]Trong 10 tự tại, tâm thức tự tại là không bị trần lao ô nhiễm, không bị đối cảnh chi phối; nghiệp tự tại là 3 nghiệp thân miệng ý không bị trở ngại; sinh tự tại là muốn sinh đâu tùy ý, không bị nghiệp lực hữu lậu chi phối; pháp tự tại là trí hậu đắc tùy cơ thiết lập giáo pháp mà hợp chánh lý cả. 

[161]Chủng tánh là đa văn huân tập, không rỗng là tu hành thì thành Phật chứ không phải rỗng không, viên mãn là giáo pháp hóa độ cho người thì đức Phật nào cũng nói đầy đủ, không đầu là không thể có đức Phật đầu tiên mà sự thành Phật là vô thỉ vô chung. 

[162]Là tu tổng tập, tu không tướng, tu không dụng công, tu xí thạnh, tu không mừng đủ, đã nói trong tiết mục 2. Coi lại ghi chú 133 . 

[163]Năng lực là năng lực của pháp tánh. Sự thành là thành tựu sự nghiệp độ sinh. Pháp vị là diệu nghĩa của pháp tánh đẳng lưu. Nghĩa đức, nghĩa là niết bàn, đức là công đức vô lậu. Thấy thường là thấy pháp tánh thường trú. Năm sự này đem lại sự đại hoan hỷ của Phật, và xuất sinh từ pháp tánh mà Phật đẳng chứng, nên gọi là tánh hỷ. 

[164]Bài này tán dương 4 vô lượng tâm của Phật. 

[165]Bài này tán dương 8 giải thoát (giải thoát hết thảy chướng ngại), 8 thắng xứ (bậc thánh hơn cả thế gian) và 10 biến xứ (tuệ giác cùng khắp các pháp). 

[166]Bài này tán dương công đức vô tránh của Phật. Vô tránh là hòa bình, không cãi. Sự vô tránh của Phật là hủy diệt sự tranh cãi cho chúng sinh, sự tranh cãi ấy là mê hoặc, phiền não, nhiễm ô. 

[167]Bài này tán dương nguyện trí của Phật. Nguyện trí ấy có 5 phẩm chất.

[168]Bài này tán dương 4 trí vô ngại của Phật: giáo pháp là pháp vô ngại, nghĩa lý là nghĩa vô ngại, ngôn từ là từ vô ngại, trí tuệ là biện vô ngại. 

[169]Bài này tán dương lục thông giáo hóa của Phật. Đây là thứ tự của lục thông ấy: như ý thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhãn thông, lậu tận thông. 

[170]Bài này tán dương 32 tướng tốt và 80 nét đẹp của thân Phật. 

[171]Bài này tán dương 4 tất cả tướng thanh tịnh. Thứ tự như sau: thân thanh tịnh, độ thanh tịnh, định thanh tịnh, trí thanh tịnh. 

[172]Bài này tán dương 10 lực của Phật. Phương tiện là nguyên nhân, ma vương nói sai nguyên nhân, Phật dùng trí lực thị xứ phi xứ mà bác bỏ. Qui y là tôn thờ, ma vương bảo tôn thờ chúa trời, Phật dùng trí lực tam thế nghiệp báo mà bác bỏ. Thanh tịnh là giải thoát, ma vương nói sai giải thoát, Phật dùng trí lực thiền định giải thoát mà bác bỏ. Xuất ly là giải thoát cứu cánh của đại thừa, ma vương nói chúng sinh không tu được pháp ấy, Phật dùng 7 trí lực khác mà bác bỏ. 

[173]Bài này tán dương 4 vô úy của Phật. Thứ tự như sau: chánh đẳng giác vô úy, lậu vĩnh tận vô úy, thuyết chướng pháp vô úy, thuyết xuất đạo vô úy. 

[174]Bài này tán dương 3 bất hộ và 3 niệm trú của Phật. Về 3 bất hộ, thân miệng ý của Phật thuần tịnh thuần trí, không có gì còn phải giữ gìn, nên thuyết pháp cho đại chúng thì điều phục cho họ. Về 3 niệm trú, Phật vĩnh viễn sống trong chánh niệm và chánh trí, nên ai khen không ưa, ai chê không ghét, ai khen chê không ưa ghét. 

[175]Bài này tán dương công đức bạt nhổ tập khí của Phật. 

[176]Bài này tán dương sự không quên mất của Phật. 

[177]Bài này tán dương đại bi của Phật. 

[178]Bài này tán dương 18 pháp bất cọng của Phật, 18 pháp ấy chia ra 4 loại: hành, là 6 bất cọng đầu tiên; chứng, là 6 bất cọng kế tiếp; trí, là 3 bất cọng tiếp theo; nghiệp, là 3 bất cọng cuối cùng. 

[179]Bài này tán dương nhất thế tướng diệu trí của Phật. Trí ấy là nhất thế chủng trí, là nhất thế trí trí, hoàn thành 4 trí tức 3 thân. 

[180]Bài này nói sự sâu xa về sinh, trú, nghiệp và ăn. Không trú ở mà trú ở: trú ở niết bàn vô trú. Ăn có 4 loại, Phật thuộc loại ăn thứ 4: ăn chỉ là thị hiện có ăn. 

[181]Bài này nói sự sâu xa về an lập, số lượng và việc làm. Việc làm là lợi lạc chúng sinh. Việc làm ấy có loại không thường xuyên là biến hóa thân và thọ dụng thân, có loại thường xuyên là tự tánh thân. 

[182]Bài này nói sự sâu xa về hiện thành đẳng giác. Thành Phật mà nói không phải có, là không phải có biến kế nơi y tha; thành Phật mà nói không phải không, là không phải không viên thành nơi y tha. Nói cách khác, thành Phật là biểu thị sự có viên thành và sự không biến kế ấy. 

[183]Bài này nói sự sâu xa về ly dục. 

[184]Bài này nói sự sâu xa về đoạn diệt các uẩn. 

[185]Bài này nói sự sâu xa về thành thục chúng sinh. 

[186]Bài này nói sự sâu xa về hiển hiện của Phật. 

[187]Bài này nói sự sâu xa về thị hiện thành đẳng giác và nhập niết bàn. 

[188]Bài này nói sự sâu xa về an trú. An trú trong tự thể tối thắng có 3: một, ở trong pháp phi thánh thì Phật an trú trong thánh trú (là 3 giải thoát môn không vô tướng vô nguyện), hai, trong nhân loại và các nẻo ác thì Phật an trú trong thiên trú (là thiền định), ba, trong pháp phi phạn hạnh thì Phật an trú trong phạn trú (4 phạn trú từ bi hỷ xả).

[189]Bài này nói sự sâu xa về thị hiện bản thân. Tùy căn cơ mà Phật thị hiện, không ở nơi nào mà không nơi nào không ở, nên thân Phật thì siêu giác quan. 

[190]Bài này nói sự sâu xa về đoạn diệt phiền não. Độc tố bị chú lực là cũng như thuốc chủng. Để lại phiền não là để thọ sinh trong sinh tử mà hóa độ chúng sinh. 

[191]Bài này nói sự sâu xa về bất khả tư nghị. 

[192]18 viên mãn, chính văn kể tiếp ở đây. Nhưng tôi đem lên đoạn trên, ghi trong mở đóng vòng đơn, làm như vậy để dễ hiểu hơn. 

[193]Vì dẫn dắt thanh văn xoay về đại thừa, vì giữ gìn bồ tát có khuynh hướng không phải đại thừa, nói tóm, vì 2 số người thuộc loại không cố định này mà Phật nói nhất thừa. 

[194]Vì pháp tánh, vô ngã và giải thoát, 3 điều này thì Phật với thanh văn duyên giác đồng đẳng, nên Phật nói nhất thừa. Những người thuộc loại không cố định là thanh văn và bồ tát mà bài chỉnh cú trên mới nói. Ý lạc có 2, có nhân ý lạc, mình người bình đẳng, có pháp ý lạc, pháp pháp bình đẳng. Thanh văn còn có 1 loại nữa là hóa thân của Phật. Sự rốt ráo là cứu cánh, là chung cục, cuối cùng - thì chỉ là một. Vì 5 lý do này nữa, cọng với 3 lý do trước, có tất cả 8 lý do mà Phật nói nhất thừa. 

[195]Lý do ba là tập thể thấy khác nhau. Lý do bốn là cá thể thấy cũng trước sau khác nhau. Lý do sáu, chuyển bản thức được pháp thân, chuyển chuyển thức được được thọ dụng thân, không thể không khác nhau. 

[196]Cùng lúc Phật hóa thân nhập thai thì cũng hóa thân thành tôn giả Xá lợi phất v/v nhập thai. Hóa thân như vậy là để làm tôn nghiêm cho sự thành Phật của một đức Phật. 

[197]Lý do sau hết, nhập niết bàn chỉ là hóa thân thị hiện; nếu hóa thân là pháp thân, thì nhập niết bàn là pháp thân nhập niết bàn, như vậy là trái với thệ nguyện độ sinh, hoặc thệ nguyện ấy vô hiệu quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567