Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04_Đại Sư Pháp Chiếu (747-821) Tổ Thứ Tư Tông Tịnh Độ (747-821)

06/11/202407:22(Xem: 420)
04_Đại Sư Pháp Chiếu (747-821) Tổ Thứ Tư Tông Tịnh Độ (747-821)
tu to phap chieu-2

Lược Truyện 
Đại sư Pháp Chiếu Tổ Thứ Tư Tông Tịnh Độ
(747-821)

Đại sư Pháp Chiếu (747-821), họ Trương, Cao tăng thời nhà Đường, Tổ thứ 4 của Tông Tịnh Độ ở Trung Quốc. Một đời của Đại sư có nhiều sự tích thần kỳ vi diệu, thù thắng, nay chọn mấy điều lược thuật như sau: 

Đại sư thuở nhỏ xuất gia làm Tăng, ban đầu ở chùa Đông Lâm ở Lô Sơn chuyên tu niệm Phật Tam Muội. Một hôm sau khi sư nhập định vào thế giới Cực Lạc, thấy có vị tăng đứng hầu bên Phật. Khi Đại sư đến, Phật A Di Đà nói rõ, mới biết vị tăng đó là Đại sư Thừa Viễn ( Tổ thứ 3 Tông Tịnh Độ) ở Hoành Sơn. Sau khi xuất định, Đại sư liền đến Hoành Sơn ở Hồ Nam, dưới núi gặp Đại sư Thừa Viễn y phục giống ở trong cảnh Cực Lạc mà sư thấy,  liền bái Đại sư Thừa Viễn làm Thầy. Tại Hoành Sơn, Đài Đi Đà Đạo Tràng Bát Chu tinh tấn tu Tịnh Nghiệp. 

Niên hiệu Đại Lịch thứ 2 ( 767), thời nhà Đường, khi Đại sư tu hành ở Hoành Sơn Nam Nhạc, một hôm sáng sớm ăn cháo, bỗng nhiên thấy trong bát hiện rõ cảnh giới: Trong núi có một ngôi chùa, bảng chùa đề chữ bằng vàng “ Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Hai vị Bồ Tát đang giảng kinh thuyết pháp, đại chúng vây quanh nghe pháp. Cảnh giới này Đại sư thấy nhiều lần, bấy giờ thỉnh giáo Đại Đức, có một vị tăng quá khứ qua Ngũ Đài Sơn sau khi nghe nói:” Đây đúng là Ngũ Đài Sơn”. Đại sư liền phát tâm sáng sớm lễ Ngũ Đài Sơn. Nhưng có quá nhiều chướng duyên, chưa thể đến lễ được. 

Vào ngày hạ, Niên hiệu Đại Lịch thứ 4 (769), Đại sư mở đạo tràng Ngũ Hội Niệm Phật (1) tại chùa Hồ Đông ở Hàng Châu, vào ngày mùng 2 tháng 6 cảm được mây lành giăng che đạo tràng, trong mây hiện lầu gác, có mấy vị Tăng người Ấn, thân cao hơn trượng, tay cầm tích trượng đang lướt đi. Lại thấy Phật A Di Đà và Phổ Hiền, Văn Thù hai vị Bồ tát hiện thân sắc vàng, biến đầy hư không. Đại chúng tham dự pháp hội đều thấy rõ ràng, ai nấy đều hớn hở vui mừng, đốt hương chiêm ngưỡng đảnh lễ. Cảnh tượng ấy hồi lâu mới biến mất.

Niên hiệu Đại Lịch thứ 5 (770), Đại sư đến Ngũ Đài, cảnh tượng trông thấy hoàn toàn giống với cảnh giới mà Đại sư thấy trong bát, sau được hào quang Phật phóng xuống dẫn đường đến chùa Đại Thánh Trúc Lâm. Khi vào chùa, thấy hai vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền đang giảng kinh thuyết pháp có cả vạn người cung kính lắng nghe, Đại sư cũng tham gia vào hội chúng để lắng nghe pháp. 

Lập tức, Đại sư lên phía trước cung kính đảnh lễ thỉnh giáo:” Hiện tại thời kỳ mạt pháp (Triều Đường là kỳ đầu của mạt pháp), căn tánh chúng sanh không như xưa, nên cần nương pháp môn nào để tu? Bồ tát Văn Thù bảo Đại sư rằng:” Tu pháp môn niệm Phật là thích hợp nhất”. Đại sư hỏi:” Nên niệm Phật thế nào “? Bồ tát Văn Thù khai thị:” Ở phía Tây thế giới này, có Phật A Di Đà, nguyện lực của Đức Phật đó không thể nghĩ bàn, ông nên niệm liên tục khiến không gián đoạn, sau khi mạng chung, nhất định vãng sanh, không còn thoái chuyển.”

Bồ tát Văn Thù đích thân truyền trao pháp môn niệm Phật đến Ngũ Hội Niệm Phật này. Đáng tiếc là Ngũ Hội Niệm Phật ở thời mạt pháp chỉ truyền được 500 năm, hiện đã tuyệt dứt âm hưởng. Khai thị xong, Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền đồng đưa tay vàng xoa đảnh Đại sư và thọ ký cho Đại sư rằng: “ Ông nhờ niệm Phật, không bao lâu sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Nếu các thiện nam tử mong nhanh thành Phật, không bỏ qua niệm Phật thì có thể chóng chứng Vô Thượng Bồ Đề”. Đại sư sau khi nghe nghi hoặc được đoạn trừ, hớn hở vui mừng, làm lễ lui ra. 

Sau khi xuống núi, dọc đường Đại sư ghi dấu hiệu, xoay đầu nhìn lại, chùa viện không còn, chỉ còn một dãy núi hoan vu, bấy giờ Đại sư mới biết đó là Bồ tát hóa hiện. Đại sư tinh tấn tu tông Tịnh Độ, càng siêng năng dụng công, thường hành Bát Chu Tam Muội, tự tu Ngũ Hội Niệm Phật, cũng đem pháp Ngũ Hội Niệm Phật dạy người tin nguyện niệm Phật. 

Đại Tông hoàng đế bấy giờ ở nội thành Trường An thường lắng nghe hướng Đông Bắc có tiếng niệm Phật, phái sứ giả đến khu vực Thái Nguyên, Tây Sơn, xem Đại sư ở đó hoằng dương Phật pháp. Đại Tông xuống chiếu mời Đại sư vào cung, phong làm Quốc sư, dạy cho người trong cung tu Ngũ Hội Niệm Phật. 

Sau đó, vào Niên hiệu Hưng Nguyên thứ 1 (784), Đức Tông Hoàng Đế cũng thỉnh Đại sư vào cung dạy Ngũ Hội Niệm Phật. Nhân đây Đại sư lại được tôn “ Ngũ Hội PhápSư “. 

Đại sư một đời chuyên tâm tu trì pháp môn niệm Phật, 10 phần tinh tấn, ngày đêm không có gián đoạn. Có hôm, bỗng nhiên thấy vị tăng người Ấn là Tôn giả Phật Đà Ba Lợi hiện ra trước, bảo Đại sư rằng” Hoa sen niệm Phật của sư đã thành tựu, qua 3 năm nữa, hoa sen lúc đó sẽ nở”. Sau 3 năm, đến thời gian dự định, Đại sư đến đại chúng cáo biệt:” Ta đi”. Nói xong, Đại sư ngồi ngay ngắn viên tịch, sau khi vãng sanh, Đức Tông ban cho Đại sư thuỵ hiệu là:” Đại Ngộ Hoà Thượng.”

Niên hiệu Vĩnh Thái thứ 1 (765), Đại sư ở Trường An( Nay là Tây An) nơi Viện Tịnh Độ của chùa Chương Kính, y “ Kinh Vô Lượng Thọ” soạn “ Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Lược Pháp Sự Nghi Tán”(1 quyển), “Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Tụng Kinh Quán Hạnh Nghi” ( 3 quyển), giới thiệu tường tận pháp môn Ngũ Hội Niệm Phật Tịnh Độ do sư đề xướng, dẫn dắt. Ngoài ra còn có “ Đại Thánh Trúc Lâm Tự Ký”( 1 quyển).

Đại sư một đời ngôn truyền thân giáo, đáng là bậc mô phạm của hành giả Tông Tịnh Độ. Đạo hạnh công phu tu hành của Đại sư,  thật xứng đáng với danh hiệu của một bậc Tổ sư. Vì vậy Đại sư được tôn làm Tổ thứ 4 của Tông Tịnh Độ.



Tu Viện An Lạc, California, 12:00 khuya, 03-11-2024

Thích Chúc Hiền ( Kính lược dịch)


——————

(1)Ngũ Hội Niệm Phật (五會念佛) Cũng gọi Ngũ hội chân thanh. Năm hội niệm Phật do ngài Pháp chiếu đời Đường phỏng theo sự miêu tả gió thổi cây báu phát ra 5 thứ âm thanh trong kinh Vô lượng thọ mà sáng lập pháp môn Năm hội niệm Phật làm cho kẻ tăng người tục ham thích cảnh Tịnh độ. Nghi thức này thường lựa chọn 1 số vị xuất gia, tại gia có giọng hay, tiếng tốt, họp tập lại, uy nghi tề chỉnh, chia làm 5 hội, dựa theo 5 âm điệu cao thấp, nhanh chậm mà niệm Phật. Hội thứ nhất niệm chậm rãi, âm điệu trầm bình; hội thứ 2 cũng niệm chậm rãi nhưng âm điệu cao hơn; hội thứ 3 niệm không chậm không nhanh; hội thứ 4 niệm nhanh dần; hội thứ 5 niệm nhanh hơn. Năm hội niệm Phật này có năng lực: Trừ 5 khổ, dứt 5 cái(phiền não), cắt đứt 5 đường, tịnh hóa 5 mắt, đầy đủ 5 căn, thành tựu 5 lực, được giác ngộ, đủ 5 giải thoát, mau chóng thành tựu 5 phần pháp thân...





Tu To Phap Chieu
淨宗四祖法照大師略傳




法 照大師(公元747~821年),俗姓張,唐朝高僧,中國淨土宗第四代祖師。大師一生有許多神奇殊妙的感應事蹟,今揀幾則略述如下。

大師少時出家為僧,初於廬山東林專修念佛三昧。一天入定後進入極樂世界,看到有位僧人侍立佛側,大師得到阿彌陀佛明示,知道這位僧人是衡山承遠大師(淨宗三祖)。大師出定後立即前往湖南衡山,在懸崖下見到承遠大師,與極樂世界所見到的衣服形狀一模一樣,於是拜承遠大師為師,在衡山彌陀台般舟道場精修淨業。

唐代宗大曆二年(公元767年),大師在南嶽衡山修行時,有天早晨吃粥,忽然看到缽裡面清清楚楚現了一個境界:一座山裡面有一個寺院,匾額題「大聖竹林寺」金字。兩位菩薩在講經說法,大眾圍繞聽經。這樣的境界,大師見了多次,於是請教大德,有一位去過五台山的僧人聽後說:「這應該是五台山。」大師便發心朝禮五台山。然障緣甚多,未能成行。

大曆四年(公元769年)夏天,大師在衡州湖東寺啟建五會念佛道場,六月初二日感得祥雲彌漫道場,雲中現出樓閣,有幾位梵僧,身高丈餘,手持錫杖在行走。又見阿彌陀佛與普賢、文殊兩位菩薩現金色身,遍滿虛空。參與法會的大眾都清楚的看到,個個歡喜踴躍,焚香瞻禮。這種情景過了很久才消失

大曆五年(公元770年),大師到達五台,看到的景致真的跟缽裡所見的境界完全一樣,後蒙佛光引導下,真找到大聖竹林寺。於是進入寺院,看見文殊、普賢兩位菩薩正在講經說法,有一萬多人在恭聽,大師也加入其中聽了一座。

隨即,大師恭敬頂禮上前請教:「現在末法時期(唐朝是末法初期),眾生根性不如以往,應當修什麼法門比較可靠?」文殊菩薩就跟大師講:「修念佛法門最為穩當。」大師問:「當云何念?」文殊菩薩開示:「此世界西,有阿彌陀佛,彼佛願力不可思議,汝當繼念,令無間斷,命終之後,決定往生,永不退轉。」且親授念佛方法,這就是五會念佛。可惜五會念佛在末法只傳五百年,現已絕響。開示完畢,文殊菩薩與普賢菩薩共同舒展金臂摩大師頂,為大師授記:「汝以念佛故,不久當證無上正等菩提。若善男子等,願疾成佛者,無過念佛,則能速證無上菩提。」大師聽後除掉所有疑惑,歡喜踴躍,作禮而退。 下山之後,大師沿路做記號,正在做記號,回頭一看,寺院沒有了,一片荒山,於是覺悟到這是菩薩化現。大師精修淨宗,用功尤勤,常行般舟三昧,自修五會念佛,也以五會念佛之法教人信願念佛。當時的代宗皇帝在長安城內常常聽聞東北方有念佛聲,派遣使者找到山西太原地界,看到大師在那裡弘揚佛法門。代宗於是下詔書,迎大師入宮,封為國師,教宮人修五會念佛。之後的德宗皇帝於興元元年(公元784年)也請大師入宮中教五會念佛,因此大師又被尊為「五會法師」。

大師一生專心致志修持念佛法門,十分精進,日夜沒有間斷。有一天,忽然梵僧佛陀波利尊者現前,對大師說:「你的念佛蓮華已經成就,再過三年,蓮華就要開了。」三年後,到了預定蓮華開的時候,大師就向大眾告別:「吾行矣!」說完,端坐而逝,往生後德宗敕大師謚號「大悟和尚」。

永泰元年(公元765年),大師在長安(今西安)章敬寺的淨土院,依《無量壽經》撰寫《淨土五會念佛略法事儀贊》(一卷),還撰寫了《淨土五會念佛誦經觀行儀》(三卷),更為詳盡系統的介紹了他所倡導的淨土五會念佛法門。此外還著有《大聖竹林寺記》一卷。

大師一生言傳身教,堪為淨宗行者之榜樣。其德業功行,實不愧一代祖師之榮稱,因此被尊為淨宗四祖.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/09/2012(Xem: 4533)
Khi đức Phật du hóa tại nước Di-hy-La, Ngài ngụ trong vườn Am-La. Bấy giờ có thiếu phụ tên là Bà-tứ-Tra có năm người con chết liên tiếp trong mấy năm. Vì qúa nhớ thương buồn rầu, nên khi đứa con thứ năm vừa chết xong, bà phát điên, xõa tóc, xé rách hết quần áo, chạy rong cùng đường kêu la, khi cười khi khóc, lúc nói lảm nhảm một mình.
14/09/2012(Xem: 4850)
Kinh Lăng Nghiêm là một trong những bộ Kinh tinh túy cốt lõi thuộc truyền thống Kinh điển đại thừa Bồ Tát đạo trong Phật Giáo. Tinh thần Bồ tát là tinh thần cầu thành Phật, phổ độ chúng sanh, tinh thần ấy không phân biệt giữa hai giới tại gia hay xuất gia. Đã là Phật tử, tức phải xác định mục đích tấn tu duy nhất, mục đích đó là phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo. Trong lời tựa tán thán Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan phát nguyện “ngũ truợc ác thế thệ tiên nhập”, lời phát nguyện đó cũng chính là lời phát nguyện cho mỗi người Phật tử trên con đường tu tập.
14/09/2012(Xem: 5357)
Phật dạy các pháp đều từ tâm sanh, dù vậy cảnh vật bên ngoài vẫn là hiện hữu. Tuy nhiên sẽ không có cảnh tượng nếu không có tâm tưởng. Những giác quan chính của con người từ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) đều như thế. Sỡ dĩ ta có thể nhận thức được mọi thứ là do căn tiếp xúc với trần, rồi dùng thức để phân biệt nhận lãnh. Nếu không như vậy ta không thể nhận biết được gì.
14/09/2012(Xem: 5395)
Khi nói đến tu là nói đến chuyển hóa Tâm thức trong mỗi con người chúng ta, đó là điều quan trọng nhất. Có hai mức độ chuyển hóa, mức độ thứ nhất là phát tâm từ bi thương hết tất cả chúng sanh, mức độ thứ hai là tập hoán chuyển giữa Mình và Người, còn gọi là thực tập pháp tu Cho và Nhận.
06/09/2012(Xem: 3844)
Khi đức Phật du hóa đến núi Tỳ-ha-La, thuộc thành La-duyệt-Kỳ, Ngài trú ngụ trong động cây Thất-diệp (Sau này tập kết Kinh Luật ở đây); có một vị Cư-sĩ tên là Tán-đà-Na thuộc thành La-duyệt-Kỳ, cứ mỗi ngày thường đến chỗ Phật ngụ. Một hôm trên đường đi, Cư-sĩ Tán-đà-Na nhìn bóng mặt trời thấy còn sớm, vì Cư-sĩ nghĩ rằng đức Phật còn đang nhập định, và các vị Tỳ-kheo cũng còn đang thiền-định; nghĩ như vậy, nên Cư-sĩ Tán-đà-Na tạm thời tạt vào nghỉ chân tại rừng Ô-tạm Bà-Lợi.
01/09/2012(Xem: 4550)
Một hôm đức Phật vào thành A-Nậu-Di khất thực, nhưng vì còn sớm, nên Ngài ghé vào vườn chỗ cư ngụ của Phạm-chí Phòng-già-Bà, để đợi đến giờ rồi mới đi khất thực; lúc đó, Phạm-Chí từ xa trông thấy đức Phật đi đến liền ra nghênh đón và nói: - Chào Cù-Đàm, qúy hóa thay đức Cù-Đàm; từ lâu không đến, nay Ngài chiếu cố chắc là có chuyện gì, kính mời Ngài ngồi chỗ này.
23/08/2012(Xem: 4882)
Khi đức Phật du hoá tại phiá bắc thôn Thâu-lô-Tra, thuộc nước Câu-Lâu-Sấu, bấy giờ các người trong thôn nghe tin: “Sa-môn Cù-Đàm, con Vua dòng họ Thích, lià bỏ tông-tộc, xuất gia học đạo, đang trú ngụ trong vườn Nhiếp-hoà; vị Sa-môn ấy có tiếng tăm lớn đồn khắp mọi nơi là bậc đắc đạo, là thầy của Trời và Người, thuyết pháp vi diệu chưa từng có”, nên họ rủ nhau cùng đến gặp Ngài để lễ bái cúng dường.
18/08/2012(Xem: 8501)
Anh chị em thân mến, đặc biệt là người thân hữu lâu năm Jim[1]. Thật sự tôi rất vui mừng được đến đây để gặp gở mọi người. Một số là người thân quen đã lâu, và hầu hết các vị là mới. Tôi cảm thấy rất quan trọng để gặp gở và chia sẻ một số quan điểm của tôi, chính yếu là những kinh nghiệm của riêng tôi và cũng như tôi nghĩ là một số quán chiếu. Tôi nghĩ ở đằng ấy, những sinh viên trẻ tuổi mà tôi cho là tôi có kinh nghiệm hơn (cười). Các bạn chỉ vừa mới bắt đầu một cuộc đời thật sự, còn tôi đã sắp nói lời giả biệt, bye bye (cười).
18/08/2012(Xem: 4370)
Một hôm, đức Phật dạy các Tỳ Kheo: - Thuở xưa, Chư Thiên đánh nhau với Thần A Tu la. Thích Đề Hòan Nhân (Vua trời Đế Thích) ra lệnh cho Chư Thiên Đạo Lợi: “- Các Ông đánh nhau với Thần A Tu La, làm sao bắt được Vua Thần A Tu La, hãy dùng 5 sợi dây trói lại, đem về giảng đường Thiện Pháp, ta muốn thấy mặt nó.”
16/08/2012(Xem: 4899)
Một số người theo thuyết Nhất thần giáo thành lập niềm tin vào "Thiên chúa" trong nhiều Tôn giáo. Nhiều người tự cho Tôn giáo mình là Hữu thần-Bất khả tri (Agnostic), và những người khác vui vẻ tự nhận mình là Vô thần (Atheist). Một vài giáo phái Bất khả tri luận cũng là Phật tử, và một số họ tin vào "những tầng trời" và "những cõi địa ngục". Tuy nhiên những Phật tử này tránh từ “G" (God) trong tất cả tình huống. Vậy thì Phật tử theo chủ thuyết Bất khả tri luận có thể chấp nhận “Thiên chúa” không?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]