Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại Sư Thiếu Khang, Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ

20/09/202417:06(Xem: 1520)
Đại Sư Thiếu Khang, Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ
Thieu Khang Dai Su



Lược Truyện

Đại Sư Thiếu Khang
Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ



Đại sư Thiếu Khang họ Chu quê ở huyện Tấn Vân tỉnh Chiết Giang. Một hôm, mẹ ngài mơ thấy mình đi trên đỉnh Định Hồ, có Ngọc nữ trao cho bà một cành hoa sen xanh và nói: “Hoa sen xanh này biểu tượng cho Đại cát tường xin tặng cho bà. Bà sẽ sanh được quý tử, mong bà yêu thương giữ gìn nó”. Nghĩa là cành hoa sen này biểu tượng cho điều tốt lành lớn, nay trao tặng cho bà. Bà sẽ sanh được con trai tôn quý. Hy vọng bà chăm sóc con trai thật tốt.

Ngày Đại sư sanh ra hào quang xanh khắp nhà tỏa ra mùi hương thơm của hoa Phù Dung. Đại sư có tướng mạo trang nghiêm, môi đỏ, mắt xanh, thông minh, khả ái. Thơ bé có vẻ khác thường, không giống như những đứa trẻ khác, không thích vui đùa, thường mỉm cười, ngồi ngay ngắn. Mọi người biết sư đều nhận ra sư có vẻ của một vị tướng.

Lên bảy tuổi vẫn chưa nói năng. Một hôm, mẹ sư dắt sư đến lễ Phật ở chùa Linh Sơn. Mẹ hỏi sư: “ Con biết tượng Phật không”? Đại sư bỗng nhiên đáp: “ Đây là Phật Thích Ca Mâu Ni”. Mẹ sư nghe xong rất ngạc nhiên, biết con mình nhất định là có đủ căn lành từ đời trước và có duyên với Phật nên liền cho con xuất gia tu hành

Năm 15 tuổi, sư thọ giới, học luật, sau năm hạ đã thông hiểu nghĩa lý sâu mầu của năm bộ kinh lớn như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm..v.v.
Năm 20 tuổi, sư đến chùa Long Hưng phủ Giang Ninh tỉnh Giang Tô để học kinh Hoa Nghiêm và Luận Du Già. Sau sư du phương khắp nơi để tham học với các bậc thiện tri thức

Vào niên hiệu Trinh Nguyên thứ nhất đời nhà Đường (năm 785), sư đến chiêm bái và tham học tại chùa Bạch Mã ở Lạc Dương, thấy văn tự trong điện Phật phóng ra ánh sáng, tìm xét kỹ thì phát hiện nơi phát ra ánh sáng chính là từ quyển Tây Phương Hoá Đạo Văn của Đại sư Thiện Đạo, sư liền cung kính khấn nguyện: “ Nếu có duyên với Tịnh Độ thì hãy khiến cho tập sách này phát quang lần nữa”. Khấn nguyện xong thì hào quang lại hiện ra sáng rỡ. Trong hào quang ẩn hiện vô số hóa Phật và Bồ Tát. Sư thấy tướng lành ấy liền phát nguyện: “ Kiếp thạch có hết, (1) nguyện con không thay đổi”.

Từ đó trở đi, sư noi gương theo Đại sư Thiện Đạo, quy tâm Tịnh Độ để bày tỏ lòng mình sư bèn đến chùa Quang Minh ở Trường An, đến nhà tưởng niệm bia ký và tôn tượng của Đại sư Thiện Đạo để chiêm ngưỡng lễ bái. Bỗng nhiên thấy tượng chơn thân của Đại sư Thiện Đạo bay lên hư không bảo với Đại sư rằng: “ Ngươi y như sự hành trì của ta làm lợi lạc cho hữu tình thì công đức của ngươi, đồng sanh nơi An Dưỡng.”(Nghĩa là hãy noi và học phương pháp giáo hóa của ta mà giáo hóa khắp tất cả hữu tình thì công giáo hóa của ngươi liền được cùng với ta đồng sanh thế giới Cực Lạc, được thánh hiển gia trì của Đại sư Thiện Đạo lại củng cố thêm lời thệ nguyện trọn đời hoằng dương Tịnh Độ của Đại sư).

Sau Đại sư đi xuống phương Nam đến huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc tại chùa Quả Nguyện gặp một vị tăng nói với sư: “ Thầy muốn giáo hóa chúng sanh thì hãy đi Tân Định”. (2) Nói xong vị ấy liền biến mất. Đại sư y lời của vị tăng đến Tân Định ( Nay là thành phố Kiến Đức, tỉnh Chiết Giang) khéo hiển bày sự giáo hóa độ khắp chúng sanh. Sau Đại sư hành khất được một số tịnh tài, khuyến khích bọn trẻ rằng: “ Phật A Di Đà là Bổn sư của con, con niệm một danh hiệu Phật thì ta cho con một tiền”. Bọn trẻ vì tiền đua nhau niệm. Sau mấy tháng niệm Phật, bọn trẻ càng tăng tiến. Đại sư lại khéo khuyến tấn: Niệm mười câu cho một tiền. Cứ như thế, trải qua một năm khuyến hoá, nam nữ già trẻ khắp vùng Tân Định gặp Đại sư Thiếu Khang họ đều niệm A Di Đà Phật, nơi nơi được nghe danh hiệu Phật. Vì vậy, Phong trào Niệm Phật ở Chiết Giang trở nên hưng thịnh.

Đại sư thấy cơ duyên chín muồi ở núi Ô Long, sư kiến lập đạo tràng Tịnh độ, xây dựng giảng đường ba tầng để giáo hóa chúng sanh. Mỗi ngày trai giới thiện nam tín nữ vân tập đến để được sư giáo hóa có đến hơn ba ngàn người. Mỗi khi lên tòa giảng, Đại sư cao thinh xướng niệm A Di Đà Phật, mỗi một tiếng niệm nhiều người trong hội chúng thấy từ trong miệng Đại sư hiện ra một vị Phật, tụng liên tục mười tiếng thì hiện mười Phật, giống như tràng hạt châu. Đại sư nói với đại chúng rằng: “ Các ngươi thấy Phật, nhất định được vãng sanh”. Chúng đệ tử nghe lời thọ ký họ đều hoan hỷ lạ thường lại thiết tha niệm Phật. Trong chúng cũng có một số ít chưa thấy Phật buồn cảm tự trách, nhân đó càng thêm tinh tấn niệm Phật gấp bội lần.

Tháng 10, niên hiệu Trinh Nguyên thứ 21 thời nhà Đường, Đại sư Thiếu Khang triệu tập tăng chúng và đệ tử tại gia căn dặn lời di chúc sau cùng: “ Nên khởi tâm tăng tấn với Tịnh Độ, hãy khởi tâm nhàm chán xa lìa với cõi Diêm Phù Đề. Giờ đây các ngươi người nào thấy hào quang của ta là chơn thật đệ tử của ta”. Nói xong, Đại sư ngồi kiết già, thân phóng ra mấy luồng háo quang rồi an nhiên viên tịch. Khi đó, thời tiết đột nhiên thay đổi, gió thổi mạnh, hàng trăm con chim hót líu lo, núi Ô Long trong chốc lát dường như trắng xóa. Sau lễ trà tỳ, chúng đệ tử của sư dựng tháp xá lợi, thế hệ sau tôn xưng “ Hậu Thiện Đạo Tháp”.


Trích dịch từ Tịnh Độ Ngũ Tổ Thiếu Khang Đại Sư Lược Truyện
Tu Viện An Lạc An Lạc, California, 10:30 tối, 19-09-2024
Thích Chúc Hiền ( Kính dịch)


———————-
Ghi chú:
(1)劫石: Tỉ dụ cho sự lâu dài của kiếp. Theo Trí Độ Luận, quyển 5, có tảng đá rộng bốn mươi dặm, có người trường thọ mỗi năm dùng áo mềm phẩy qua tảng đá một lần cho tới khi tảng đá ấy mòn hết mà kiếp vẫn chưa hết. Do vậy, mới gọi tảng đá ấy là “kiếp thạch”.
(2) 新定(即今天的浙江省建德市): Tân Định: Nay là thành phố Kiến Đức, tỉnh Chiết Giang



Thieu Khang Dai Su




淨宗五祖少康大師略傳


少康大師,俗姓周,浙江省縉雲縣人。母親羅氏夢遊鼎湖峰,有玉女授給她一枝青蓮花說:「此青蓮花表大吉祥,寄於你所,當生貴子,冀愛護之。」意為這支青蓮花代表著大吉祥,暫時寄存於你這裡,你應生尊貴之子,希望你好好愛護他。大師降誕之日,青光遍室,散發著芙蓉的芬香。大師相貌莊嚴,朱唇碧眼,聰慧可愛,幼時即有不凡之態,與一般孩童不同,不喜玩鬧,經常含笑端坐,識者皆認為大師有將相之態。師長到七歲都未曾開口講話,一日,母親帶他到靈山寺拜佛,問他:「認識佛像不?」大師忽出言回答:「這是釋迦牟尼佛。」母親聽了甚感驚詫,心知此子定是宿具善根與佛有緣,便令兒子出家修行。師十五歲受戒,學律五夏後,已能通曉《法華經》、《楞嚴經》等五部大經的奧義。弱冠之年,往江蘇江甯龍興寺聽講《華嚴經》與《瑜伽論》。後遊歷四方,參學知識

唐貞元初(公元785年),拜學於洛陽白馬寺,見佛殿內文字大放光明,仔細探查之下,發現發光的是善導大師的《西方化導文》,即恭敬祝禱:「若與淨土有緣,當使此文再發光明。」祝禱剛剛完畢,光亮又再次閃爍。光中還隱隱約約現出無數的化佛菩薩,師睹斯瑞相,乃發誓言:「劫石可磨,我願無易矣。」

大師南下到湖北江陵,在果願寺遇一僧對他說:「你欲教化眾生,應當去新定。」說完,便消失不見。大師依言到達新定(即今天的浙江省建德市),巧施教化,廣布度生。大師行乞得錢後,勸誘兒童說:「阿彌陀佛是汝本師,能念一聲佛號,我便給你一錢。」眾兒童為了錢,爭相念佛。幾月之後,念佛兒童劇增,大師又善巧引導,念十句佛給一錢。如此經過一年的勸化,新定地區男女老少見少康大師都口念阿彌陀佛,處處得聞佛號,江浙念佛之風由此而興。

大師見機緣成熟,於是在烏龍山興建淨土道場。築造三層講壇用於教化眾生。每逢齋日,善男信女雲集而至,被教化者多達三千餘人。大師每登壇講座,即高聲唱誦阿彌陀佛。每念一聲,眾人多有見大師口中即出一佛者,連誦十聲,則出十佛,若連珠狀。大師對大眾說:「汝見佛者,決定往生。」眾弟子聽到這個授記,欣喜異常,念佛更切。亦有少數未見者,悲感自責,因而加倍精進念佛

唐貞元二十一年十月,少康大師召集僧俗弟子作最後的囑示:「當於淨土,起增進心;於閻浮提,起厭離心。汝曹此時見我光明,真我弟子。」言畢結跏趺坐,身放數道光明而化。當時,天氣陡變,狂風四起,百鳥悲鳴,烏龍山間仿佛也一時變白。遺體火化後其弟子等為師立舍利塔,後人稱之為「後善導 塔」










🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

- 🌹Thiếu Khang Liên Tông Ngũ Tổ (thơ)
- 🌹Khuyên Người Niệm Phật (thơ)

- 🌹Lược truyện Đại Sư Thiếu Khang, Tổ Thứ Năm Tông Tịnh Độ


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/12/2010(Xem: 5920)
Thiền tập Phật Giáo là cần thiết trong trường học do những lợi ích thiết thực của nó. Nhưng có những gì hơn thế ấy. Khi tín ngưỡng trong trường học từ mọi truyền thống tiếp tục chiếm những đề mục nổi bật hàng đầu, thì quan điểm của một nền giáo dục đặc biệt của Đạo Phật không phải tranh cải nhiều. Những sự thực tập căn bản của trường học gợi hứng từ Đạo Phật, trái lại đang bắt đầu đạt được sự thúc đầy.
29/12/2010(Xem: 5263)
Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng: “Nhứt thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quán”. Bằng trí tuệ siêu việt của bậc giác ngộ đã khai thị cho chúng ta thấy được muôn sự muôn vật tồn tại trên thế gian này đều là mộng ảo hư huyễn giả tạm, như bọt sóng, như ảo ảnh, như sương mai, như điện chớp, tạm bợ vô thường không tồn tại lâu dài, vật lớn như sơn hà đại địa cho đến thân mạng cũng đều như vậy, tất cả đều phải tuân theo một qui luật chung là Thành Trụ Hoại Không hay Sanh Trụ Dị Diệt. Đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, không đáng để tham luyến khổ đau.
19/12/2010(Xem: 7135)
Khi tôi là một thiếu niên ở Tây Tạng, tôi cảm thấy rằng đạo Phật của chính tôi phải là một tôn giáo tốt nhất - và những tôn giáo khác là kém hơn làm sao ấy. Bây giờ tôi thấy tôi đã ngây thơ như thế nào vậy, và nguy hiểm như thế nào mà sự cực đoan thiếu bao dung tôn giáo thể hiện ngày nay.
17/12/2010(Xem: 5258)
Dù thế nào chăng nữa thì mọi cuộc đời đều quý báu. Trước hết, quý báu có nghĩa là gì? Trong Phạn ngữ, từ ratna để chỉ cho sự quý báu. Trong tiếng Tây Tạng, ratna đôi khi được dịch là konchog và có lúc được dịch là rinpoche. Đôi khi từ này được dịch ngắn gọn là rinchen. Những lúc khác được dịch là norbu, có nghĩa là viên ngọc quý. Vì thế, tiếng Tây Tạng thật phong phú khi diễn tả những thuật ngữ tâm linh khác nhau.
15/12/2010(Xem: 4604)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phật là phật tính. Và cũng do phật tính mà Đức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiện và đạt được giác ngộ. Bởi phật tính là bản chất tinh khiết và giác ngộ thực chất của chúng ta mà chúng ta có thể hoàn thiện và vượt qua bất cứ ô nhiễm nào. Đức Phật đã chia sẻ sự hiểu biết sâu sắc của Ngài về điều này, không chỉ công nhận thực tế phật tính tồn tại trong tất cả chúng sinh, mà còn dẫn dắt chúng ta để đánh thức khả năng vô hạn và bẩm sinh này cho tới khi chúng ta đạt được sự tỉnh giác trọn vẹn về phật tính của chính mình, và tự chúng ta trở thành những vị phật giác ngộ.
10/12/2010(Xem: 13393)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
08/12/2010(Xem: 4955)
Vấn đề tha lực và tự lực xưa nay vẫn được nhiều người tranh luận sôi nổi. Ở đây, NSGN trân trọng giới thiệu ý kiến của Minh Đức Thanh Lương, tác giả của Tịnh độ luận, Con đường lý tưởng Bồ tát đạo Ẩ về mối quan hệ giữa tự lực và tha lực trong quá trình thực nghiệm tâm linh.
05/12/2010(Xem: 9189)
Lịch sử nhân loại nhìn từ một khía cạnh nào đó chính là lịch sử của tư duy con người. Các biến cố lịch sử, chiến tranh, sự tiến bộ về mọi mặt, các thảm kịch..., tất cả phản ảnh bản chất hoặc tiêu cực hoặc tích cực của tư duy con người. Các danh nhân, các nhà cách mạng, các tư tưởng gia..., đều là các vĩ nhân đại diện cho những tư duy tích cực. Thảm kịch, bạo ngược, chiến tranh tàn khốc... phát sinh từ những tư duy tiêu cực.
04/12/2010(Xem: 3944)
Mỗi sáng thức dậy với tâm tỉnh giác, ta thấy mình vẫn còn sống và hân hoan chào đón một ngày mới hạnh phúc, vui tươi bằng sự nhiệm mầu trong từng phút giây. Một ngày mới bắt đầu giúp ta có thời gian rèn luyện nhân cách, sống cố gắng làm một việc gì, để làm tròn trách nhiệm đối với gia đình, dấn thân đóng góp lợi ích cho xã hội.
03/12/2010(Xem: 5154)
Cho dù bạn không hiểu biết nhiều về Pháp, cho dù điều duy nhất bạn biết là Om Mani Padme Hum thì cuộc đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải thoát khỏi tám mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái độ trong sạch thoát khỏi sự tham luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần trải đời mình trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum – thần chú sáu-âm này là tinh tuý của toàn bộ Giáo Pháp – thì đó là Pháp thanh tịnh nhất. Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó không hoàn toàn đơn giản. Ở đây tôi sẽ chỉ đề cập tới cốt lõi của những lợi lạc vô biên của nó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]