Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật là con đường vãng sanh Cực Lạc

20/12/201912:58(Xem: 5166)
Niệm Phật là con đường vãng sanh Cực Lạc

 Phat Di Da



Niệm Phật là con đường vãng sanh Cực Lạc

 

• Phương Quỳnh

 

     Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không?

 

     Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành.

     Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh » trong mỗi niệm Tâm cũng giống như mỗi niệm Phật. Niệm Phật làm cho Tâm mình không còn tham-sân-si; mà tham-sân-si cũng giống như là ao nước đục. Tu để gạn lọc Tâm ta làm cho vũng nước đục thành trong. Tương tự như vậy, niệm Phật giống như viên ngọc trị thủy làm cho nước đục thành trong. Vậy, niệm một danh hiệu Phật có thể biến tâm loạn trở thành tâm tịnh, đó là tâm Phật.

     Giáo pháp của Đức Phật là « tối thượng và cố thắng ». Vậy niệm Phật là pháp môn rốt ráo, cứu cánh, vạch lối cho những hành giả thực hành các giáo pháp của Đức Phật để sớm thăng tiến trên con đường tu tập. Niệm Phật để đổi phiền não thành Bồ Đề, mà Bồ Đề là giác ngộ. Niệm Phật để loại trừ cái vọng trở thành cái chân, chuyển hư vọng thành chân như, gạn lọc tâm phàm phu trở thành tâm Phật. Phật tức tâm, tâm tức Phật « nhứt thiết duy tâm tạo ».

     Đời là khổ, nên chúng ta phải lấy « Tín, Hạnh, Nguyện » làm kim chỉ nam trong đời sống. Đời nằm trong phạm trù của pháp hữu vi, nên chúng ta phát tâm Bồ Đề và chuyên trì niệm Phật để bước ra quỹ đạo đau khổ bởi làm được thân người đã là một nhân duyên thù thắng.

     Trên con đường sanh tử luân hồi, vị thiền sư hay con người bình thường đều phải chịu luân hồi nhân quả như nhau. Thiền định về Tứ Vô Lượng Tâm là Từ-Bi-Hỷ-Xả là 4 giáo pháp của Đức Phật dạy. Quán chiếu tự thân và tâm của mình cùng với người khác mình là Một mà vô lượng cũng là Một. Tinh thần cộng trụ và cộng hưởng để quán chiếu dòng sông sanh tử, thân-thù đều bình đẳng. Đây là điều mà người vô minh không thấy được, cho nên hành giả nghe pháp bằng cảm xúc mới hiểu được và chú trọng vào 3 cách « văn, tư, tu » văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Đức Phật dạy trước tiên phải biết lắng nghe, sau đó suy nghĩ rồi mới thực hành vì giáo pháp của Đức Thế Tôn vô cùng thâm sâu, vi diệu.

     Trong kinh Phổ Môn có câu « từ nhãn thị chúng sanh », mắt thương nhìn cuộc đời. Hãy nhìn người bằng cặp mắt rộng mở, đừng nhìn bằng cặp mắt cú vọ. Lời nói làm sao biểu lộ được tấm lòng chân thật, đừng làm một cách đạo đức giả; đó mới là tinh thần của lòng Từ Bi.

     Chúng ta phải tập sống cho chúng sanh. Đó là theo tinh thần giáo pháp Bát Nhã. Tinh thần đó phải biết quán chiếu được « ngũ uẩn để trở thành giai không » là sắc, thọ, tưởng, hành,  thức. Tinh thần Từ Bi của đạo Phật ngay từng giây từng phút.

     Bố thí, trì giới, niệm Phật là phương tiện cho mỗi hành giả có được Phật tánh. Phương tiện là phải đưa đến sự thành công, đến mục đích.  

     Niệm Phật là phương tiện cho mỗi hành giả phát triển Phật tánh, phát tâm từ bi. Tâm con người phải gạn lọc giống như đất, nước trong đầm sen nên hoa sen mới có màu sắc đẹp đẽ và hương thơm thanh khiết.

     Chúng ta đã biết rằng, bổn nguyện của Đức Phật cứu khổ tất cả chúng sanh. Khi Đức Phật thành đạo rồi, nghĩ rằng ta sẽ nhập Niết Bàn liền, nhưng Chư Thiên yêu cầu Ngài ở lại cõi Ta bà này. Ngài nhìn thấy trong hoa sen có đủ loại màu sắc…, thì ra chúng sanh cũng có vô số Phật tánh, nên Đức Phật lưu lại để cứu độ chúng sanh. Nếu chúng sanh chịu trì niệm Phật theo lời chỉ dạy của Đức Thế Tôn thì trong tương lai cũng sẽ thành Phật.

     Chúng ta phải chuyên tâm khi trì niệm Phật và đặt trọn lòng tin vào Đức Phật A Di Đà thì khi vãng sanh chúng ta mới có hy vọng được Ngài rước vào cõi Tây Phương Cực Lạc đúng như lời nguyện cứu khổ chúng sanh của Ngài.  

     Vậy chúng ta cần củng cố niềm tin:

     - sống động tin vào giáo pháp tối thượng của Đức Phật

     - tha thiết tin vào Đức Phật A Di Đà cõi phước thiện

     - kiên định để tin vào Tam Bảo, làm năng lực hộ trì cho cho Tam Bảo.

    Tam Bảo đem lại không biết bao nhiêu lợi ích cho chúng sanh, còn giáo pháp của Phật đem lại không biết bao nhiêu nghìn trùng những điều hay vô cùng quý giá cho nhân loại.

     Cho nên Phật, Pháp, Tăng là ba nơi để chúng ta nương tựa. Đã là Phật tử thì chúng ta phải luôn tín tâm vì nó như hạt giống tốt cần phải chăm sóc gìn giữ, đừng bao giở để cho tâm bất thiện dẫn dắt mình làm những điều tội lỗi. Trong tinh thần của đạo Phật, Phật pháp là cánh cửa mở lối cho chúng ta hành trì theo lời Phật dạy.

    Lòng từ bi không phân biệt hữu tình hay vô tình, nhưng trí tuệ giúp cho kiến thức chúng ta phân biệt thiện ác, hư vọng, chân như. Trì danh hiệu Đức Phật A Di Đà chưa phải là tối hậu, mà còn phải nhiếp tâm hướng về Đức A Di Đà thì năng lượng trí tuệ cần thiết mới phát ra. Trì ra hơi mà không ra tiếng là Kim Cang trì. Niệm thầm gọi là nhiếp tâm. Niệm to là cao tằng niệm.

     Tiền thân của Đức Phật A Di Đà trong lời nguyện thứ 32 có ghi rõ:« Giả sử khi tôi thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượngchâu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượngthế giớimười phương. Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác ».

     Tịnh Độ có vô lượng cõi: Đông, Tây…, nhưng Cực Lạc chỉ có một mà thôi. Tu Tịnh Độ không phải chỉ là niệm Phật mà còn phải tích Phước. Tối hậu của Niệm là vô Niệm, tiến dần đến mức độ trong sáng là vô lượng quang, nên trong kinh Kim Cang chỉ Phật trong Tâm.

     Pháp Niệm Phật là nương nhờ đến Đức Phật

để chuyển hóa Tâm mình mong được giải thoát như Ngài Vĩnh Minh (Diên Thọ) vừa tu Thiền vừa tu Tịnh Độ. Mà Tịnh Độ luôn có thêm Thiền.

     Trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà và Chư Bồ Tát sẽ được một lực rất mạnh, nên Ngài Phật Ấn thuê người niệm Phật «Nhất tâm của Tịnh Độ là niệm tất cả». 

    Niệm Phật là thực hành những lời Phật dạy để chúng ta tiến gần hơn với Phật.

    Niệm Phật sẽ có được ba công đức là vô lượng thọ, vô lượng quang và vô lượng công đức.

     Tóm lại niệm Phật, hành trì, tích lũy công đức, phát Bồ Đề tâm tự độ và độ tha… là con đường Đức Thế Tôn dẫn dắt chúng ta sớm thoát khỏi luân hồi sanh tử. Thể tánh của vô minh vốn là giải thoát. Mỗi chúng sanh đều có mang nghiệp riêng của mình, đó là định nghiệp mà mình phải trả. Nghiệp là tài sản riêng của mỗi người, là sự tạo tác qua ba phạm trù Thân-Khẩu-Ý. Nghiệp thiện sẽ làm tư lương cho đời mình, năng lực của nghiệp giống như cỏ Cú nên mình phải tự lực giải thoát, còn Đức Phật A Di Đà chỉ là tha lực để mình nương tựa mà thôi.

      Lời nguyện thứ 38 trong kinh Vô Lượng Thọ là nói về năng lực chiêu cảm của nhũng sự không tốt. Giải thoát là cởi bỏ tất cả những sự trói buột ngay khi còn đang sống, chứ không phải chờ đến khi chết. Vì thế thể tánh của vô minh vốn là giải thoát. Là Phật tử chúng ta phải luôn nhớ giữ giới luật, ba điều thiết yếu là: từ bỏ, nên làm, bổ sung.

     Trong giới luật: Phật Bảo là tánh giác ngộ, Phật Tăng là hoàn thành giác ngộ, Phật Pháp là không làm tổn hại người khác. Trong Thánh pháp luật của Như Lai không có giai cấp và nô lệ. Trong kinh Pháp Hoa: giáo pháp của Đức Phật chỉ có ba câu :

     - không làm điều ác

     - làm việc lành

     - giữ tâm ý trong sạch

     Từ ba điều trên khai triển ra thành Kinh, Luật, Luận

 

          Thưa quý hành giả, trên đây là những giáo pháp tôi ghi chép được qua những bài pháp thoại của các Giảng sư: Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover-Đức Quốc; Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu, Viện chủ chùa Phật Đà San Diego-Hoa Kỳ; Thượng Tọa Thích Hạnh Tấn, Viện chủ Tu viện Vô Lượng Thọ, Dresden-Đức Quốc và Đại Đức Thích Hạnh Giới, Tịnh Thất Viên Lạc, Varel-Đức Quốc trong khóa tu Phật thất lần thứ 11 từ ngày 22 đến 28.9.2019 tại chùa Bảo Quang Hamburg-Đức Quốc.

     Chắc chắn những ghi chép nêu trên còn nhiều thiếu sót, mong quý Chư Tôn Đức và các đạo hữu thiện tri thức bổ sung thêm.

     Thành kính niệm ân.

     Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát.  

 


Hamburg, tháng 10.2019

Phương Quỳnh (Diệu Thiện)

__________________________________



Xem thêm bài:

Gương Sáng Niệm Phật
(bài viết của TT Nguyên Tạng)

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/05/2011(Xem: 6843)
Tôi học Phật đến nay cũng đã lâu, tuy nhiên cũng đã từng đi trợ niệm người lâm chung! Lúc đối diện với người qua đời thường khiến cho người ta nhớ đến mấy câu thơ: Ngã kiến tha nhân tử Ngã tâm nhiệt như hỏa Bất thị nhiệt tha nhân Khán khán luân đáo ngã Ta thấy người khác chết Tâm ta như lửa đốt Chẳng phải đốt người khác Nhìn lại tới phiên ta.
04/05/2011(Xem: 4191)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
28/04/2011(Xem: 4570)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
25/04/2011(Xem: 4164)
“Viễn ly chúng khổ quy viên tịch” là một câu trong bài tụng Hộ Pháp, được dịch là “xa rời các khổ về viên tịch” hay cũng có thể hiểu là “xa rời các khổ chứng niết bàn.”Ai ở cõi ta bà này đã từng ở trong cảnh khổ, chịu đựng cảnh khổ, nếm mùi khổ đến một lúc mà người ta phải thốt lên, “Ô quá đủ rồi, tôi muốn từ bỏ cảnh khổ, tôi tin rằng tôi có thể thoát cảnh khồ và tôi sẽ hành động để thoát khổ.” Khi người ta hạ quyết tâm thoát ly khổ cảnh thì gọi là viễn ly. Nhưng không chỉ quyết định thoát khỏi hoàn cảnh khổ (quả khổ) mà từ bỏ cõi luân hồi (nhân khổ) mới thật sự là viễn ly, như câu thường nghe nói “bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”.
18/04/2011(Xem: 50223)
Câu Phật hiệu "Nam Mô A Di Đà Phật" quả thật rất mầu nhiệm, công năng rất lớn, được rất nhiều lợi ích, nếu mà nói về đề tài xoay quanh câu đại hồng danh này thì bản thân tôi không bao giờ thấy chán và tôi chỉ luôn luôn nói và viết như nhiều bài bình luận tôi đã viết, có gì không phải xin BQT và các bạn đồng tu, các Phật tử xa gần bỏ quá cho:
18/04/2011(Xem: 5208)
Vào tháng Mười năm 2002, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sẽ truyền pháp Thời Luân ở Graz, Áo Quốc. Sự kiện được thực hiện công cộng cho cả những Phật tử lẫn không Phật tử. Mục tiêu của lễ truyền pháp là để cung cấp một cơ hội cho mọi người tất cả mọi tín ngưỡng tụ họp trong một không khí hòa bình để lắng nghe giáo huấn về từ ái và bi mẫn và để tái khẳng định chí nguyện của mọi người để duy trì đạo đức thuần khiết từ truyền thống của họ. Do vậy, lễ truyền pháp được công khai hóa như “Giáo Pháp Thời Luân vì Hòa Bình Thế Giới”. Với những hành giả Phật tử, mục tiêu bổ sung là ban phép gia trì cho họ để dấn thân trong những thực hành mật thừa nâng cao của Giáo Pháp Thời Luân.
09/04/2011(Xem: 5158)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
05/04/2011(Xem: 7017)
Giáo dục của chúng ta là sự vun đắp của ký ức, sự củng cố của ký ức. Những thực hành và những nghi lễ của tôn giáo, đọc sách và hiểu biết của bạn, tất cả là sự củng cố của ký ức.
03/04/2011(Xem: 7066)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đức và thiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
03/04/2011(Xem: 7114)
Kinh Bát-nhã lấy niết-bàn siêu việt danh, tướng, phân biệt, cũng chính là sự tự chứng của Thích-ca Như lai, làm lập trường căn bản. Dựa theo đây để quán tất cả pháp, hữu vi và vô vi không phải là hai, sanh tử và niết-bàn không phải là hai, tất cả đều không phải là hai, không phải là khác, ‘dứt tuyệt mọi hí luận’. Dùng điều này để giáo hóa dẫn dắt, thì không bằng như sự giáo hóa của đức Thích tôn, không bắt đầu từ vô thường, khổ, mà trực tiếp từ không, vô tướng, vô nguyện, v.v., nhập môn, đây là Phật pháp Đại thừa – đặc sắc của kinh Bát-nhã.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567