Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ba nghi và Bốn ải

12/09/201917:56(Xem: 6329)
Ba nghi và Bốn ải

phat di da tiep dan
Ba nghi và Bốn ải

 

Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.

 

A- Ba điều nghi

 

1) Nghi là vì nghiệp quá khứ mình quá nặng, trong khi công phu tu hành còn nông cạn - do đó sợ mình không được vãng sanh.

 

2) Nghi là vì mình chưa hoàn thành tâm nguyện hay bổn phận và Tham Sân Si còn nhiều - do đó sợ mình không được vãng sanh.   

 

3) Nghi là mặc dầu mình niệm Phật nhiều, có thể Phật A-di-đà không đến rước (vì không thấy điềm lành) - do đó sợ mình không được vãng sanh.

 

B) Bốn cửa ải

 

Bốn cửa ải  là:

 

1) Do bịnh khổ hay tai nạn nên thối thất, sanh tâm trách Phật là không linh thiêng hay không quan tâm           cứu giúp.  

 

2) Do bịnh nặng sợ chết nên phá trai, phạm giới, ăn thịt, uống rượu, cúng bái tà thần, v.v...

 

3) Quyến luyến tài sản, của cải không nỡ xa lìa

 

4) Vấn vít tình cảm gia đình thân thuộc nên tự trói mình, không thể buông bỏ.

       

C) Giải quyết Ba điều nghi

 

     1) Nghiệp mình nặng, công phu còn kém cỏi:

 

Trong lời nguyện thứ 18, đức Phật A-di-đà thề sẽ không trụ ngôi Chánh giác nếu có chúng sanh  thành tâm cầu nguyện vãng sanh và nhất tâm niệm danh hiệu Ngài (cho đến 10 niệm) mà không được vãng sanh. Phật không bao giờ vọng ngữ, nên chúng ta phải tin tưởng Ngài. Mười niệm rất ngắn ngủi mà cũng có thể vãng sanh, thì chúng ta thành tâm niệm Phật đã nhiều - lẽ nào lại không được vãng sanh? Nếu không được vãng sanh là do không đủ Tín và Nguyện, không phải do niệm Phật không đủ số lượng.

 

Hơn nữa dầu nghiệp nặng, nếu ta thành tâm sám hối, chí thành tin tưởng và niệm danh hiệu Phật thì Ngài sẽ đến hoan nghinh và hướng dẫn ta về cõi Cực Lạc - như đồ tể Trương Thiện Hòa suốt đời sát sanh, lúc gần chết thấy cảnh địa ngục rất hốt hoảng, may nhờ thiện tri thức khuyên sám hối và hết lòng niệm Phật cầu cứu độ - nên được vãng sanh. Trong Quán Kinh cũng dạy là: Nếu người phạm tội Ngũ Nghịch hay Thập Ác, lúc gần chết ác tướng điạ ngục hiện tới, nếu chí thành sám hối và niệm danh hiệu Phật cầu xin cứu độ, Phật sẽ hiện thân rước về cõi Cực Lạc, sanh ra trong hoa sen Hạ phầm. Tại sao chúng ta nghiệp ác không quá nặng, lại nghi ngờ Phật không đến cứu mình?

 

      2) Tâm nguyện chưa tròn, Tham Sâm Si còn nặng

 

          a) Tâm nguyện tu hành

 

Nghĩ rằng mình tu hành đã lâu mà công phu còn nông cạn lại còn nhiều lỗi lầm, e rằng mình còn nơ đàn na tín thí quá nhiều, sợ không được vãng sanh. Nên nhớ kể cả người cực ác nếu thành khẩn niệm Phật lúc lâm chung cũng được vãng sanh, còn mình là người tu hành nếu có đủ tín nguyện thì lẽ nào Phật không cứu độ? Nếu được Phật A Di Đà bảo lãnh thì lo gì không trả được nợ đàn-na tính thí hay các món nợ khác?

 

Cũng có người muốn xây một ngôi chùa, muốn bố thí tài sản, muốn tụng bao nhiêu quyển kinh, v.v...Người tu nên nghĩ rằng chí thành niệm Phật sẽ được sanh về Cực Lạc, nơi mình có đầy đủ cơ duyên để tạo vô lượng phước đức. Do đó những nguyện ước làm công đức của mình so ra chỉ là thứ yếu, không đáng cho

mình phải lo lắng, nhứt là vào lúc lâm chung.

 

         b) Tâm nguyện thế tục

 

Đây là những bổn phận gia đình như chăm sóc người bịnh, cha mẹ già, vợ con nheo nhóc, v.v...hay những món nợ chưa trả, những lời hứa chưa làm tròn, v.v...Người sắp chết nên nghĩ rằng những mối lo âu nầy, nay ta sắp chết, không thể nào giải quyết được, dầu ta có nghĩ đến chúng hay không. Một khi được vãng sanh về Cực Lạc và đạt thành Phật quả, mọi tâm nguyện hay nợ nần rồi sẽ được giải quyết - bởi vì ta có khả năng cứu giúp gia đình và mọi người, bạn cũng như thù. Trong Di-lan-đà Vấn kinh có ngụ ngôn nầy: Một hạt cát rớt xuống mặt nước sẽ bị chìm ngay, trong khi một tảng đá nặng nếu có thuyền chở có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Người tu hành cũng giống vậy, dầu nghiệp nhẹ nhưng nếu không được Phật A-di-đà cứu giúp, cũng phải theo nghiệp mà luân hồi. Trái lại, với sự cứu độ của Phật A-di-đà, dầu nghiệp có nặng nề cũng không ngăn được người ấy vãng sanh Cực Lạc. Như thế, ta thấy pháp môn Tịnh độ nhờ thần lực của Phật, có thể cứu được người nghiệp nặng. Đức A-di-đà ví như thuyền chở, nghiệp nặng ví như tảng đá lớn. Do đó hành giả Tịnh độ chớ nghĩ là tàn dư Tham Sân Si có thể ngăn trở mình vãng sanh, trừ phi mình không có đủ Tín và Nguyện.

 

 

      3) Sanh nghi vì không thấy điềm lành

 

Ta có niệm Phật, lúc chết Phật A-di-đà có thể không đến rước (vì không thấy điềm lành). Lúc chết, hành giả Tịnh độ, tùy sức tín nguyện và công phu niệm Phật của mình, có thể thấy Phật A-di-đà, chư Bồ-tát và Hải Hội thánh chúng hiện thân đến tiếp dẫn, Cũng có khi người ấy không thấy gì cả, nhưng nhờ nguyện lực của mình và thần lực của Phật mà được vãng sanh. Khác nhau ở mức độ tin sâu nguyện thiết và công phu niệm Phật sâu hay cạn của mình. Điểm quan trọng nhất là lúc sắp chết ta chỉ nên nhứt tâm niệm Phật và không lo nghĩ bất cứ gì. Mọi nghi ngờ hay lo lắng lúc ấy sẽ là ngăn trở rất lớn cho sự vãng sanh. Tóm lại, trong lúc lâm chung, hành giả không nên quan tâm về việc có thấy thoại chứng hay không. Người ấy phải buông xả tất cả, hết sức tập trung và thành khẩn niệm danh hiệu Phật xin Ngài cứu độ, cho đến hơi thở cuối cùng

 

D) Giải quyết Bốn cửa ải

 

     1) Do bịnh khổ hay tai nạn nên thối tâm, trách Phật không linh thiêng hay không quan tâm cứu giúp.

 

Hành giả nên biết rằng nghiệp quả thông cả ba đời, nên bịnh khổ hiện nay có thể do nhơn duyên xấu ác trong quá khứ mà nay mình phải trả. Cũng có khi do công phu tu hành nên mình được dồn nghiệp, để sớm trả cho hết trước khi vãng sanh. Phải tin tưởng luật nhơn quả và vui lòng trả nghiệp, trước khi mình ra đi. Vả lại già bịnh và cái chết là điều tự nhiên, không ai tránh khỏi.

 

 

     2) Do bịnh nặng nên sợ chết mà phá trai, phạm giới, cúng bái tà thần, v.v...

 

Điều nầy chứng tỏ hành giả chưa đủ đức tin và còn bám níu cõi đời. Phải nhớ cõi Ta-bà nhiều uế trược và đầy dẫy sự đau khổ - thân nầy là đãy da ô uế, nguồn gốc của bịnh tật và chết chóc. Nay nếu ta bỏ nó để sanh về Cực Lạc, thọ thân vàng và hưởng mọi sự vui - thì còn gì phải lưu luyến cõi đời nầy? Nên nhớ nếu không đủ đức tin và còn bám níu thì không bao giờ ta có thể vãng sanh. Do đó ngày thường, hành giả phải tập buông bỏ tất cả, thì lúc chết mới có hy vọng vãng sanh.

 

 

    3) Luyến tiếc của cải, tài sản

Những thứ nầy là phù du không đáng cho mình quan tâm. Nếu được vãng sanh thì không có vua chúa hay tỷ phú nào trên trái đất có thể đầy đủ và hạnh phúc được như mình. Hơn nữa những thứ ấy mình có đem theo được đâu, sanh tâm luyến tiếc nào có ích chi?

 

     4) Quyến luyến gia đình quyến thuộc, không nỡ xa lìa

 

Nên nhớ gia đình quyến thuộc là chỉ trong kiếp nầy. Khi chết rồi thì ai nấy theo nghiệp mà đi, có khi gặp nhau mà không biết, thậm chí trở thành kẻ thù của nhau. Chúng ta đã trải qua vô số kiếp, đã có vô số cha mẹ, vợ chồng, con cái, quyến thuộc, thân bằng, v.v... trong quá khứ - mà hiện nay ta còn nhớ ai đâu? Gia đình thân thuộc như bầy chim cùng đậu trên cây, khi giông bão đến thì rã bầy, mạnh ai nấy bay. Nếu hiểu thế, thì gia đình thân thuộc không còn trói buộc được mình.

 

Một vị đại sư nói: "Được vãng sanh hay không là do Tín và Nguyện, phẩm vị cao hay thấp là do công phu niệm Phật của mình". Do đó muốn được vãng sanh, phải lo bồi dưỡng Tín Nguyện (Tin phải sâu, Nguyện phải thiết) trước - rồi quyết định niệm Phật trọn đời để cầu sự tiếp độ của Phật. Có người cho là phải niệm Phật đến nhứt tâm mới được vãng sanh. Điều nầy không đúng, bởi vì có người niệm ít hơn 10 niệm lúc lâm chung mà cũng được vãng sanh do họ có đủ tín nguyện và thành khẩn cầu xin cứu độ. Cho nên hành giả đừng nghĩ niệm Phật phải đạt tới mức nhứt tâm mới được vãng sanh mà sanh ra nghi ngờ khả năng của mình. Thật ra, niệm Phật nhứt tâm bất loạn chỉ là diều kiện để được vãng sanh Thượng phẩm mà thôi, chớ không áp dụng chung cho tất cả mọi người. Trong kinh A-di-đà chẳng phải đã nói chỉ cần nhứt tâm niệm được mười niệm lúc lâm chung là được vãng sanh hay sao?

 

Thích Phước Thiệt trích mục “Ba nghi và Bốn ải trong Từ điển Phật học Việt Anh – 12/9/2019






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/04/2012(Xem: 4953)
Chính là con người có một cảm nhận đáng giá về cái "tôi" và đồng hành một cách tự nhiên từ cảm nhận ấy mà chúng ta muốn theo đuổi hạnh phúc và lẫn tránh khổ đau. Đây là quyền lợi bẩm sinh của chúng ta, và điều không cần phải bàn cải gì hơn nữa. Những chúng sinh khác cũng mong ước được tự do khỏi khổ đau, vì thế nếu chúng ta có quyền vượt thắng khổ đau, thế thì những chúng sinh khác tự nhiên cũng có cùng quyền con người như vậy. Vậy thì điều gì là sự khác biệt giữa tự thân và người khác? Có một sự khác biệt lớn lao con số, nếu không phải là bản chất. Những người khác là con số nhiều hơn ta vô cùng. Ta chỉ là một, và con số của những chúng sinh khác là vô hạn.
03/04/2012(Xem: 3874)
Lúc bình thường tại sao cần phải niệm Phật? Vì bình thường niệm Phật là để chuẩn bị cho khi lâm chung. Tại sao không đợi đến lâm chung mới niệm Phật? Vì hằng ngày niệm Phật chính là để huân tập hạt giống Phật vào trong tâm của bạn. Nếu bạn niệm mãi thì trải qua thời gian, hạt giống đó lớn dần lên trong mảnh đất tâm của bạn và đưa bạn đến kết quả giải thoát giác ngộ. Nếu bình thường bạn không niệm Phật thì bạn không biết gieo hạt giống Phật vào mảnh đất tâm của mình. Khi lâm chung, thần trí rối loạn thì làm sao nghĩ đến Phật mà niệm được chứ. Tại sao vậy? Vì hiện tại không thường xuyên niệm Phật. Do đó, hằng ngày cần phải niệm Phật, lạy Phật, tu pháp môn Tịnh độ. Được như thế thì hiện tại được bình an, khi lâm chung không bị hôn mê tán loạn lại được tự tại vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc.
03/04/2012(Xem: 4238)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm, muốn được vậy phải có 3 điều kiện: *TÍN # ĐỊNH # THỂ (thuộc tâm) *HẠNH # GIỚI # TƯỚNG (thuộc thân) * NGUYỆN # TUỆ # DỤNG (diệu dụng của tâm)
03/04/2012(Xem: 6457)
Xác thân chết nhưng linh hồn còn chuyển biến liên tục mãi mãi. Lúc hấp hối hiện ra những việc thiện, ác hay vô ký (không thiện không ác) đã làm trong cuộc sống. Nếu tắt thở hiện ra việc thiện thì tái sanh về cõi thiện (người, trời) ; hiện ra việc ác thì tái sanh về cõi ác (địa ngục, ngạ quỷ, atula). Tốt nhất, chúng ta niệm Phật niệm Phật được nhất niệm và phát nguyện vãng sanh sẽ được Phật tiếp dẫn về Tây phương Cực lạc, vĩnh viễn thoát luân hồi sinh tử khổ. Phương cách niệm lục tự A Di Đà được nhất niệm thông qua 6 căn :
26/03/2012(Xem: 5819)
Để phát sinh lòng từ ái chân thật, chúng ta cần biết nó khác biệt với luyến ái như thế nào. Lòng yêu thương và trắc ẩn thông thường quyện kết với luyến ái, bởi vì động cơ của chúng là vị kỷ: chúng ta quan tâm đến những người nào đấy bởi vì họ tạm thời giúp đở chúng ta và người thân của chúng ta.
21/03/2012(Xem: 3707)
Về nhà chỉ có một lối, nhưng phương tiện thì có nhiều ngả. Phật dạy có nhiều pháp môn tu, nhưng chuyên tu một pháp môn nào cũng đều được liễu ngộ cả. Tập “Pháp môn niệm Phật” này, chuyên nói về sự niệm Phật. Hành giả nào muốn mau thành Phật không gì qua niệm Phật. Nên biết sáu chữ Hồng danh chẳng luận già trẻ, trai gái, sang hèn, nghèo giàu, kẻ mua gánh bán bưng, kẻ đi bộ, người chèo thuyền, đều niệm Phật được. Nhưng phải phát nguyện sau khi lâm chung thần thức được vãng sanh về Cực lạc, liên hoa hóa sanh. Lại nữa, ai là người muốn giải thoát sanh tử luân hồi, muốn viên mãn phước huệ, những ai phát Bồ-đề tâm cầu thành Phật, nguyện độ chúng sanh, đều phải chuyên tu niệm Phật.
19/03/2012(Xem: 9391)
Một thái độ từ ái vị tha chỉ có một khuôn mặt, ân cần tử tế đến tất cả. Tuy nhiên, sự vị tha này giúp ích người khác và chính mình, cả hiện tại bây giờ và trong tương lai dài lâu. Như một vi lạt ma Tây Tạng Kunu Tenzin Gyelsten đã nói, "nếu con muốn là một người thân hữu của tất cả, hãy phát sinh lòng từ ái và bi mẫn. Nếu con muốn là một người hướng dẫn tâm linh cho tất cả mọi người, hãy phát sinh lòng từ ái và bi mẫn. Nếu con muốn giúp ích mọi người, hãy phát sinh lòng từ ái và bi mẫn."
04/03/2012(Xem: 7579)
Khi chúng ta đã quán chiếu thông khắp những bước trước, nhận ra tất cả chúng sinh như những thân hữu hay người nuôi dưỡng qua sự tương tục của những kiếp sống và đánh giá đúng những sự ân cần có chủ tâm và vô tư, chúng ta sẽ thật sự thấy rằng chúng ta phải đáp lại sự ân cần tử tế của họ. Nhưng chúng ta hổ trợ họ như thế nào? Bất kể loại phồn vinh nào chúng ta có thể đem lại cho họ trong vòng xoay sinh, già, bệnh, và chết, nó sẽ chỉ là tạm thời và nông cạn.
20/02/2012(Xem: 6219)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
18/02/2012(Xem: 5113)
Sanh tử là vấn đề ai cũng phải trải qua nhưng không phải ai cũng có thể hiểu rõ bản chất của nó. Đứng trên quan điểm nhị nguyên, sanh tử được cho là hai thái cực trái ngược nhau và do đó nhân loại luôn tìm cách kéo dài sự sống mà lý tưởng của nó là trường sanh bất tử. Dù có nỗ lực vượt bậc, con người cũng không thể đạt được mục tiêu ấy vì lý do đơn giản, đó là quy luật của tạo hóa. Trong khi chấp nhận sự thật sanh tử, con người lại tiếp tục tìm cách lý giải hiện tượng sau khi chết với hai thái cực trái ngược nhau là không còn gì tồn tại sau khi chết (đoạn kiến) và vẫn còn sự tồn tại sau khi chết. Ở thái độ thứ hai, lại có nhiều quan điểm khác nhau. Có thuyết cho rằng linh hồn (tâm) tồn tại bất biến hay bất diệt[1](thường kiến), có thuyết cho rằng sau khi chết linh hồn tội lỗi phải chờ đợi đến ngày phán quyết cuối cùng để hoặc lên thiêng đàng hay đọa địa ngục do Chúa quyết định (Cơ đốc giáo, Hồi giáo…).[2]Phật giáo cũng khẳng định sau khi chết con người không mất hẳn mà tiếp tục luân
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]