Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành trình về Tây Phương Tịnh độ

05/03/201807:39(Xem: 6508)
Hành trình về Tây Phương Tịnh độ



phat di da-1


Hành trình về Tây Phương Tịnh độ

 

                                                   

"Tịnh độ" là thế giới hoàn toàn trong sạch, thường để chỉ cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật

A-di-đà.

 

A) Mở đề

 

Người tu Tịnh độ ví như người muốn đóng thuyền vượt biển để thoát khỏi cõi Ta-bà đầy đau khổ mà đi về cõi Cực lạc hoàn toàn thanh tịnh và an vui. Chúng ta phải chuẩn bị và hành sự thế nào để chuyến vượt biển được thành công? Kinh nói chúng ta cần tu đủ ba môn Tín, Nguyện và Hành thì mới có thể được vãng sanh. Ở đây, chúng tôi xin lấy thí dụ chuẩn bị một chuyến vượt biển để cho dễ hiểu.

 

B) Chánh đề

 

    Đức Phật từng nói:  "Nước mắt của chúng sanh nhiều hơn nước đại dương."

   

    Người tu Tịnh độ phải phát tâm đại bi thương xót tất cả chúng sanh đau khổ, kể cả bản thân, mà nhứt quyết niệm Phật để cầu vãng sanh, chứng ngôi bất thối. Sau đó cỡi thuyến đại nguyện trở lại Ta-bà để phổ độ chúng sanh, đúng như bổn hoài của  Đức Đại Từ Phụ. Đây gọi là phát tâm Bồ-đề, ví như mình cần một vị Thuyền trưởng tài ba để giúp mình lèo lái con thuyền về bến bờ Tịnh độ.

  

    Sau đó phải ráo riết chuẩn bị mọi việc cần thiết cho chuyến hài hành nhiếu gian nan. Đó là Tín, Nguyện và Hành,

 

    1) "Tín" tức là Lòng tin

 

     Muốn vượt biển thì trước hết phải sắm một chiếc thuyền tốt. Đây chính là thuyền đại nguyện của đức Phật A-di-đà. Ngài đã phát ra 48 lới đại nguyện và kiến tạo một thế giới hoàn toàn tốt đẹp để cứu độ chúng sanh về đó. Nếu chúng ta không tin có đức Phật A-di-đà và cõi Cực lạc, tức là ta không sắm được thuyền, thì đừng nói chi đến chuyện vượt biển. Dầu ta có niệm Phật giỏi đến đâu mà vẫn còn lòng nghi thì cũng không được vãng sanh. Bởi vì nếu thuyền không vững chắc thì khi sóng gió nổi lên, thuyền sẽ tan rã và chúng ta sẽ bị chìm đắm ngoài biển khơi. Do đó có thể nói lòng Tin như ghe thuyền để vượt biển.

 

     2) "Nguyện" như bánh lái của thuyền

 

     Nếu thuyền tốt mà bánh lái không bền chắc thì giữa đường khi gặp sóng to gió lớn, nó sẽ hư rã và chúng ta không cách nào hướng thuyền đi đúng mục tiêu, và thuyền sẽ trôi giạt về nơi vô định. Nghĩa là nếu tâm nguyện vãng sanh không tha thiết thì khi gặp khó khăn ta sẽ thối thất - và nhứt là khi lâm chung, tâm thần hôn loạn nên chúng ta dễ bị lạc về cảnh giới khác. Do đó người tu Tịnh độ trước hết cần phát Bồ-đề tâm kiên cố, nhứt quyết sanh về Tịnh độ để chứng ngôi bất thối, sau đó trở lại Ta-bà để cứu độ chúng sanh cho đến khi thành Phật đạo. Hiện tiền, phải luôn niệm tưởng Cực Lạc, siêng làm việc lành và hồi hướng tất cả công đức về Tịnh độ để cho mình và chúng sanh đều được vãng sanh.  Nếu còn tâm niệm ham mến phước lạc ở cõi nhơn thiên, thì làm sao có thể sanh về Tịnh độ? Người có Bồ-đề tâm kiên cố thì khế hợp với đại nguyện của Phật A-di-đà và dễ được vãng sanh. Có thể ví như người chủ thuyền có được vị Thuyền trưởng tài ba, nên có nhiều hi vọng vượt biển được thành công.

   

 3) "Hành" ví như gắn máy cho thuyền, chuẩn bị xăng dầu và lương thực

   

Tâm Bồ-đề có thể ví như vị Thuyền trưởng giỏi, công phu niệm Phật (hay quán tưởng Tịnh độ) có thể ví như máy chánh của thuyền, những công phu khác ví như phụ kiện đem theo. Muốn niệm Phật mau được nhứt tâm, chúng ta nên theo lời dạy của Đức Bồ-tát Đại Thế Chí trong Kinh Lăng-nghiêm: "Nhiếp cả Sáu căn, tịnh niệm nối luôn, vào Tam-ma-địa, đó là thứ Nhứt". Ngoài ra, người tu Tịnh độ cần mang theo Ba món lương thực để khỏi đói khát dọc đường. Đó là:

 

     - Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ Sư trưởng.

     - Từ tâm không giết hại, tu Mười điều lành.

     - Tụng đọc kinh Đại thừa, khuyến tấn người tu hành. 

 

Những người già cả yếu đuối hay trí lực kém, thì chỉ nên chuyên tâm niệm Phật để dễ được nhứt tâm mà vãng sanh (Xem thêm “Lão Bà Niệm Phật”). Còn những người có trí lực khá, theo kinh nghiệm và thiển ý của Phước Thiệt, có thể tu thêm những công phu phụ trợ sau đây:

 

    1) Thường ngày lễ lạy danh hiệu Phật đồng thời phát nguyện cầu vãng sanh. Thí dụ như niệm ra tiếng: "Nam-mô A-di-đà Phật, nguyện con và tất cả chúng sanh đều được vãng sanh" (1 lạy). Mỗi ngày, nếu ta có thể lễ lạy nhiều lần như thế, rất tốt cho chí nguyện vãng sanh của mình.

 

    2) Thường ngày trì tụng ít nhứt 5 biến chú Đại bi, tốn khoảng 15 phút, suốt đời không thiếu sót. Đức Quán Thế Âm Bồ-tát trong kinh Đại bi tâm Đà-ra-ni có hứa sẽ đến rước người đó về Tịnh độ khi lâm chung. Đây là cái máy phụ rất tốt cho thuyền vượt biển, nếu chúng ta có khả năng trang bị thêm.

 

    3)  Trì tụng và lễ lạy thường ngày 10 điều nguyện lớn của Đức Bồ-tát Phổ Hiền. Kinh nói người nào làm được vậy thì lúc lâm chung không bị mê muội, được Đức Bồ-tát Phổ Hiền hiện thân hướng dẫn vãng sanh về cõi an lành, theo như bổn nguyện.

 

     4) Những người trí lực khá hơn nữa có thể tu thêm phép quán tâm để thấy được lỗi lầm của mình và dùng vạn đức hồng danh của Đức Từ Phụ A-di-đà làm lợi khí sắc bén để chặt đứt phiền não, tu sửa bản tâm. Thí dụ như để trừ tánh hay nóng giận, có thể lễ lạy Phật và niệm "Nam mô A-di-đà Phật, nguyện con sớm dứt trừ tánh nóng giận" (càng nhiều lần càng tốt). Đây là phép tu Trí Huệ vừa tự nhắc nhở vừa nương oai lực của đức A-di-đà, tức là tự tha gồm đủ, nên rất chóng có kết quả. Khi công phu thuần thục, đức Phật sẽ là vị thiện tri thức hướng dẫn ta tu hành. Người nào kiêm tu được pháp môn trí huệ nầy, rất có hi vọng được vãng sanh ở phẩm vị cao. 

   

      Các trợ hạnh nầy không mất nhiều thì giờ, và cũng đặt cơ sở trên việc trì niệm hồng danh của đức Phật A-di-đà và chư Thánh Tịnh độ - nên sẽ không làm loãng công phu niệm Phật chánh yếu của ta, như một số người có thể nghi ngại.

 

C) Kết luận

 

     Vượt biển được thành công không phải là chuyện dễ làm. Nên kinh nói không phải chỉ do chút ít phước đức nhơn duyên mà được vãng sanh Cực lạc, vĩnh viễn thoát khổ và thẳng đến Phật vị. Tuy nhiên đối với người Tín Nguyện đầy đủ và biết cách hành trì, thì vãng sanh Cực lạc không phải là chuyện quá khó. Chư Tổ nói: “Được vãng sanh hay không là do Tín Nguyện, phẩm vị cao thấp là do công phu Hành trì của mỗi người.” Ưu điểm đặc biệt của pháp môn Tịnh độ là ở chữ Tín, nếu chúng ta có đầy đủ đức tin và biết cách kết thiện duyên thì sẽ được sự giúp đỡ đắc lực của chư Phật và Bồ-tát, có rất nhiều hi vọng được mãn nguyện thành công, vãng sanh Cực lạc và vĩnh viễn thoát khổ.

    

Cuối cùng chúng tôi xin ghi ra đây lời khuyên vàng ngọc của Tổ sư Ấn Quang:

 

1) Bí quyết thành công của việc tu hành là phải có tâm Chân thànhCung kính.

 

2) "Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được; thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn: hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm.Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. chỉ nên nhìn đến những hình dạng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa, bại hoại. Hãy coi mọi người là Bồ-tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu.

 

Nếu quả có thể tu hành được những điều kể trên, thì nhứt định được sanh về Tây phương Cực lạc Thế giới".

 

Nam Mô A Di Đà Phật,

Sydney, Úc Châu , Xuân Mậu Tuất 2018

Tỳ-kheo Thích Phước Thiệt

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2011(Xem: 3998)
Ngài Long Thọ mở đầu Trung Luận bằng một bài tụng kính lễ Đức Phật giảng lí tính duyên khởi và tịch lạc của niết bàn.
13/12/2011(Xem: 5092)
Sự thực hành chuyển hóa tâm thức của Phật giáo chủ yếu gồm ba pháp: Chỉ (hay Định), Quán, và Chỉ Quán song tu. Ba pháp này dựa vào ba khả năng của tâm thức con người: Sự tập trung (Chỉ), sự quan sát có khi cộng thêm với sự tưởng tượng (Quán), và thực hành cả hai cái ấy cùng một lúc. Quán là quán sát (to examine), quán tưởng (to visualize), tưởng tượng (to imagine); các học giả Tây phương dịch chữ Quán bằng ba động từ này. Mục đích của thực hành quán là để thấy sự thật vô ngã và vô pháp.
27/11/2011(Xem: 6195)
“Từ bi là căn bản”, đây là lời nói viên mãn chính xác, là tâm tuỷ của Phật giáo Đại thừa, biểu đạt được nội dung chân thật của Phật giáo. Vì vậy tín đồ của Phật giáo Đại thừa nên tư duy nghiêm mật, nắm bắt thiết thực nhất!
26/11/2011(Xem: 5226)
Ba la mật thứ tư: Tinh tấn Tsöndruthường được dịch là “tinh tấn.” Tuy nhiên, trong văn cảnh của Phật giáo, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó không chỉ hàm ý sử dụng nỗ lực và cần cù mà còn là cảm nhận sự thích thú và nhiệt tâm đối với các thiện hạnh.
23/10/2011(Xem: 10251)
Khi người ta đến để nghe tôi giảng, nhiều người làm như thế với mục tiêu đón nhận một thông điệp hay một kỹ năng cho việc bảo vệ niềm hòa bình nội tại và cho việc đạt đến một sự thành công trong đời sống. Một số người có thể đơn giản biểu lộ sự tò mò, nhưng điều quan trọng nên biết là tất cả chúng ta giống nhau, tất cả là những con người. Tôi không có gì đặc biệt: tôi chỉ là một ông thầy tu giản dị. Chỉ là một con người. Và tất cả chúng ta đều có khả năng cho những điều tốt đẹp cũng như những điều xấu xí. Cũng thế, tất cả chúng ta đều có quyền để hướng dẫn những đời sống hạnhphúc. Điều này có nghĩa là những ngày và những đêm vui vẻ; trong cách này, đời sống chúng ta trở nên hạnh phúc.
19/10/2011(Xem: 4801)
Có một bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn mà không thấy sách sử ghi lại, bài thuyết ấy cũng tại Vườn Nai, xứ Ba La Nại, được nói ra trước bài kinh Tứ Diệu Đế chỉ vài giờ. Bài thuyết pháp ấy không lời. Khi Đức Thế Tôn bước từng bước chân an lạc trở về Vườn Nai, các vị trong nhóm ông Kiều Trần Như đã tiếp nhận được ánh sáng hạnh phúc đó và đã chuyển hóa được năng lượng tiêu cực đang phát khởi trong tâm bằng cách quỳ dài xuống đất để đón tiếp.
13/10/2011(Xem: 4931)
Phần lớn các nhà nghiên cứu Tây phương vào thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo Nguyên thủy. Kinh điển Nguyên thủy được sưu tập và phiên dịch bởi những học giả có định kiến Phật giáo là ‘một tôn giáo trốn lánh đời và tiêu cực thụ động’. Họ bỏ qua những hoạt động của một số tăng già trong các phong trào chánh trị “chống thực dân ’ ở các quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á và có lẽ xem các nhà sư liên hệ đến chính trị là những ‘chuyên viên quấy rối’. Ở Tây phương từ ngữ Phật giáo nhập thế chỉ mới xuất hiện gần đây.
12/10/2011(Xem: 7220)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
04/10/2011(Xem: 4039)
Quan điểm phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng tạo và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
02/10/2011(Xem: 4122)
Trong thế giới này, trong vũ trụ này hoặc trong muôn ngàn vạn ức thế giới, có một con quỷ - không biết dung mạo của nó ra sao, nó bao nhiêu tuổi, nhưng quyền năng của nó thật ghê gớm. Đó là Con Quỷ Vô Thường
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]