Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân Di Lặc trong xuân cổ truyền

23/01/201506:24(Xem: 7101)
Xuân Di Lặc trong xuân cổ truyền



Phat Di Lac
XUÂN DI LẶC TRONG XUÂN CỔ TRUYỀN

Thích Đức Trí

1- Lời đầu

Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.

2-  Xuân cổ truyền

Căn cứ lịch sử thì truyền thống Tết Nguyên Đán đã trải qua trên bốn ngàn năm trong đời sống người dân Việt Nam, Trung Quốc và một vài dân tộc khác thuộc Châu Á. Ngày tết bắt đầu từ ngày đầu tháng Giêng âm lịch, còn  gọi Xuân Tiết, Tân Xuân. Việt nam chúng ta bị Trung Quốc đô hộ hơn ngàn năm. Quá trình đó trãi qua nhiều thời đại văn hóa Việt Nam ảnh hưởng và pha trộn văn hóa Trung Quốc, từ ngôn ngữ cho đến phong tục đời sống con người. Nhưng khi Phật giáo Việt Nam phát triển cùng ý thức tự chủ dân tộc, người Việt dần dần thiết lập bản sắc văn hóa, biết gạn đục khơi trong để phát huy văn hóa của dân tộc. Nhưng đối phong tục tết trong nhân gian vẫn động lại những nét văn hóa Trung quốc. Có những phong tục nhân bản, nhưng cũng có những tập quán tiêu cực mê tín lưu dấu trong văn hóa đón xuân hằng năm trong lòng quần chúng.

Trong tín ngưỡng dân gian của người Trung Quốc và Việt nam, ngày 23 tháng 12 âm lịch, gọi là ngày Tế Táo. Tế là cúng, Táo là cái bếp lò, là cúng ông thần bếp trong nhà. Cho nên trong nhân gian quan niệm ngày 23 ba là ông thần táo về trời tâu với Ngọc Hoàng chuyện gia đình ở nhân gian. Qua ngày 24 tháng là ngày Tảo Trần, tảo là quét dọn, trần là bụi bặm. Cuối năm nhà nhà đều phải dọn dẹp sạch sẽ khang trang để chuẩn bị đón mừng xuân mới.  Vấn đề quét dọn chuẩn bị ngày Tết còn có ẩn ý là quét sạch những rủi ro tai nạn ra khỏi nhà, để gia đình được bình an. Hơn nữa, tự thân mọi người phải tắm rữa, cắt tóc, chuẩn bị quần áo mới đón xuân, ý nghĩa là làm mới hoàn cảnh sống và cả thân tâm. Phong tục mua hàng hóa cuối năm để chuẩn bị ăn tết, gọi là Biện Niên Hóa. Nhà nhà đều đi chợ để mua hàng hóa thức ăn, lễ vật cúng ngày tết. Hầu như thời điểm thích hợp là trước ngày 23 tháng 12 âm lịch. Ngày xưa trong xã hội nông nghiệp, mọi nhà tự nấu bánh, làm mứt, chuẩn bị hương hoa phẩm vật cúng tổ tiên ông bà và làm thức ăn thiết đãi bà con họ hàng qua lại thăm viếng. Vì theo phong tục, sau ngày mồng 5 tết chợ và doanh nghiệp mới bắt đầu buôn bán trở lại, cho nên phải dự phòng thức ăn và hàng hóa dùng đủ trong thời gian đó. Lễ cúng tất niên tại nhà gọi là Đại Lạp. Đại là lớn, lạp là tháng 12, lễ cúng tất niên tổng kết một năm qua thường vào cuối tháng 12 âm lịch. Nhà nào con cháu đi xa cũng thường về ăn tết với gia đình, trong nhà ăn chung một bửa cơm đoàn tụ, gọi là Niên Dạ Phạn, gọi đây là bửa cơm tối cuối năm. Bửa cơm này gửi gắm ước nguyện gia đình đầm ấm hạnh phúc, con cháu sum vầy.

Phong tục ngày xuân thường treo câu đối đỏ tại cửa nhà, ngôn từ chuyên chở ý tưởng đạo lý và nguyện vọng tốt đẹp đời sống con người. Ngày xuân còn có treo vòng hoa tại cửa sổ, hoa biểu trưng cho vẽ đẹp, thành quả tốt đẹp trong cuộc sống. Bên cạnh đó mọi người thường treo chữ “Phúc”, ước nguyện mọi phúc lành luôn đến trong nhà. Đặc biệt ngày xưa chưa có pháo, người ta đốt cây trúc cháy và phát âm thanh trong ngày đầu năm, tục này gọi là Nhiên Bạo Trúc. Nhiên là đốt, bạo là tiếng nỗ, trúc là cây tre. Cây tre trong ruột trống khi đốt nỗ ra âm thanh, tạo nên âm hưởng nhộn nhịp, vui vẽ, tinh thần phấn khởi. Cho nên ngày nay chúng ta thường đốt pháo cúng giao thừa là từ phong tục ấy. Từ khi đón giao thừa xong là chính thức bắt đầu năm mới, có năm ngày tết, từ ngày mồng một đến ngày mồng năm. Ngày mồng một có những công việc như sau: Phong tục Bái Niên: Đầu năm mọi người đi thăm viếng lẫn nhau, chúc nhau những câu tốt lành ngày đầu năm. Đây là văn hóa đặc biệt thể hiện ước muốn hạnh phúc mà mọi người nói lời chân thành với nhau trong ngày đầu năm, phong tục này gọi là Bái Niên. Từ Bái là ý nghĩa lễ bái, còn có nghĩa là thăm hỏi và cầu chúc, Niên là năm. Ý là thể hiện lời cầu chúc năm mới được kiết tường, vạn sự như ý. Ngày nay, nếu ở xa nhau thì mọi người gửi thiệp chúc tết. Phong tục Xuyên tân y: Ngày xuân mọi người thường mang quần áo mới, đặc biệt trẻ con được ưu tiên, cha mẹ thường sắm sửa quần áo, dày dép, mũ nón để đi thăm chơi và chúc tết ông bà. Phong tục này gọi là Xuyên tân y. Xuyên là mặc, tân là mới, y là áo quần, trang phục. Tục ngữ có câu: “Người đẹp nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân”. Sắc phục thể hiện nếp sống văn hóa của con người. Trong văn hóa Đông Tây, ngày lễ, ngày tết, người ta đều mặc áo quần sạch sẽ nghiêm túc đi dự hay đến thăm nhau là thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau. Phong tục Xuân Hành: Thông thường ngày mồng một là ngày ra đường lễ bái đền miếu cầu nguyện cho đại lợi, đại kiết trong năm. Phong tục Khai môn: Khai môn, quan môn: Khai là mở, quan là đóng. Nghĩa là ngày mồng một là ngày quan trọng, xem thời gian nào mở cửa hay đóng cửa nhà, cửa ngỏ.  Sáng mồng một tết, ai đến nhà mình trước nhất thì đã đạp đất nhà mình. Người ta quan niệm rằng, người hiền lành đến thì điều lành đến nhà suốt cả năm! Người xấu đến nhà thì điều xấu đến nhà suốt cả năm! Phong tục về những điều cấm kị: Ngày mồng một tết mọi người phải thận trọng nhất mọi hành động, lời nói. Không nói lời thô bạo, cải vã, hay tranh chấp hơn thua và đánh lộn. Đặc biệt không nên đem rác bẩn hay đồ ô uế đến nhà, đây là điều tốt vì giúp cho sạch sẽ vệ sinh cá nhân và và hoàn cảnh sống. Ngày mồng hai tết: Là ngày mọi người đi cúng lễ Thổ địa, những vị thần linh trong khu vực mình sinh sống. Ngoài ra cúng tổ tiên ông bà, như cúng tại nhà thờ chi nhánh trong dòng họ. Trong ngày này, con gái đã lấy chồng thường về nhà thăm viếng cha mẹ mình và chúc tết. Ngày mồng ba tết: Mọi người thong thả hơn, ngủ sớm và dậy trể, vì suốt từ đêm giao thừa qua hai ngày sau nữa có nhiều việc nghi lễ và thăm viếng nên mệt mỏi. Ngày mồng bốn tết: Là ngày ngủ dậy sớm mà tiếp thần từ trời trở về lại nhân gian và mọi người cần dậy sớm làm lễ tiếp thần tài. Nếu dậy trể thần Tài ra đi thì cả năm khó làm ăn! Ngày mồng năm tết: Là ngày kết thúc sinh hoạt thăm viếng và vui chơi, mọi người lo sửa soạn dọn dẹp sạch sẽ và bắt đầu công việc gia đình và xã hội như bình thường. Ngoài ra, liên quan vấn đề cúng bái trong mùa xuân là lễ rằm tháng giêng, còn gọi là tết nguyên tiêu. Nguyên Tiêu Tiết: Nguyên có nghĩa là đứng đầu, sự khởi đầu. Tiêu là chỉ thời gian, có nghĩa ban đêm. Tiết là chỉ cho phân định thời gian, khí hậu, còn có nghĩa là nghi lễ. Nguyên tiêu tiết là lễ cúng ngày rằm tháng Giêng. Đêm trăng tròn đầu năm này là lễ cúng tế Thái Nhất Thần, vị thần lớn nhất cai quản các thần trong vũ trụ (Thái Nhất có nghĩa là chủ tể vũ trụ). Lễ này rất trọng đại, thời Tư Mã Thiên kiến lập lịch pháp đã có ngày lễ này. Mọi người vui chơi, ăn bánh,  đốt đèn, múa lân trong lễ hội rằm tháng Giêng, ngày nay gọi là lễ Thượng Nguyên.

3- Xuân Di Lặc

Hình ảnh  “Xuân Di Lặc” xuất hiện trong tín ngưỡng Phật giáo khoảng từ đầu thế kỷ thứ mười Tây Lịch. Theo “Tống Cao Tăng Truyện” ngày Một tháng Giêng là ngày đản sanh của Bố Đại Hòa Thượng (Hóa thân Bồ Tát Di Lặc). Bố Đại Hòa Thượng viên tịch năm 916 (TL). Về sau, hằng năm tín đồ Phật giáo đón xuân cổ truyền và cùng làm lễ kỉ niệm ngày đản sanh của hóa thân Bồ Tát Di Lặc. Xuất phát từ tín ngưỡng đó mà hình thành ý nghĩa và nội dung đón mừng Xuân Di Lặc.

 Theo kinh điển Phật giáo “Kinh Di Lặc Thượng Sanh” và “Kinh Di Lặc Hạ Sanh”  Bồ tát Di Lặc hiện trú tại nội viện cung trời Đâu Suất, theo bản nguyện  thì tương lai sẽ thành Phật tại thế giới chúng ta đang sống. Thời kỳ này là Bồ tát đang hành đạo để viên mãn bản nguyện độ sanh và thành tựu quả vị Phật. Trong lịch sử Phật giáo ghi rằng: Bồ Tát Di Lặc luôn thị hiện trong cõi đời để hành đạo. Di lặc(Maitreya)là cách phiên âm từ Phạn ngữ, dịch theo nghĩa là Từ Thị. Từ Thị nghĩa chính là tâm từ bi vô lượng. Theo tinh thần Phật giáo, mọi người luôn tin tưởng vào sự xuất hiện của Phật Di Lặc trong thế giới này trong tương lai. Phật Di Lặc là biểu tượng sống động cho tinh thần từ bi, giải thoát, đem lại niềm hân hoan cho con người, chính vì lý do đó hình ảnh Đức Di Lặc gắn liền trong ngày xuân cổ truyền của dân tộc và nhân loại.

Hình ảnh Tượng Phật Di Lặc các chùa thuộc Phật giáo Bắc Tông của Việt Nam và Trung Quốc là hóa thân Phật Di Lặc. Căn cứ vào “Tống Cao Tăng Truyện” chép rằng: Vị Tăng nhân có tên là Khế Thử là hóa thân của Phật Di Lặc. Khế thử Hòa Thượng còn gọi là Bố Đại Hòa Thượng là vì ngài thường mang túi vãi lớn đi vào các thành ấp khất thực. Ngài có tướng mạo phúc đức, miệng rộng, tai dài, bụng lớn, lòng tràn đầy hoan hỷ của một bậc xuất trần tự tại. Năm thứ hai Lương Minh Trinh(TL 916), tại chùa Nhạc Lâm, thuộc huyện Minh Châu tỉnh Triết Giang Trung Quốc, Bố Đại Hòa Thượng trước khi  viên tịch đã để lại bài kệ: “Di Lặc chân Di Lặc, phân thân thiên bách ức. Thời thời thị thời nhân, thời nhân thường bất thức”(Đây thật là Di Lặc, thị hiện vô lượng thân, thường vì đời giáo hóa, người đời thường không biết). Về sau, các tự viện có treo câu đối tán dương đức hạnh của Bố Đại Hòa Thượng như sau: “Đại đỗ năng dung, dung thiên hạ nan dung chi sự. Khẩu khai tiện tiếu, tiếu thiên hạ khả tiếu chi nhân”(Bụng lớn bao dung những sự việc mà thiên hạ khó kham nhẫn trong đời. Miệng thường cười, cười với người đáng cười trong thiên hạ). Đây là tinh thần nhập thế với tâm giải thoát tự tại của hóa thân Bồ tát Di lặc trong đời. Tấm lòng bao dung được mọi chuyện trong thế gian mà tâm không bị ô nhiễm. Miệng của  ngài thường cười với tấm lòng hoan hỷ và dìu dắt mọi người trở về với đạo lý giác ngộ. Cười đây không phải sự châm biếm, đó là nụ cười xuất phát từ năng lực tâm từ bi và trí tuệ của bậc thánh giả. Hình ảnh mùa xuân Di Lặc trở làm cho ngày tết cổ truyền có ý nghĩa long trọng hơn.

4-  Đón xuân theo tín ngưỡng Phật giáo

 Sinh hoạt trong tết cổ truyền có nét đẹp trong văn hóa nhân loại, nhưng cũng có những phong tục mê tín cần khắc phục để cuộc sống có ý nghĩa hơn. Nét đẹp trong ngày tết cổ truyền là mọi người thăm viếng bà con họ hàng và người thân để làm tăng thêm giá trị tình cảm và đạo lý gia đình. Vấn đề cúng bái tưởng niệm Tổ tiên là thể hiện nếp sống ân nghĩa của con người. Vui xuân với văn hóa ẩm thực và văn hóa thời trang làm cuộc sống thêm phần hạnh phúc. Đặc biệt nhất là nuôi dưỡng tâm nguyện cao đẹp của mọi người vào tương lai tươi sáng.

Bên cạnh đó cũng có nhiều tập quán tiêu cực cần phải nhận thức và chuyển hóa. Như sát sanh hại vật để cúng bái thần linh cầu được tài lợi trong những ngày đầu năm là ảo tưởng sai lầm. Vấn đề coi bói định ngày tốt xấu xuất hành và làm ăn làm con người càng mê tín và mất tự chủ cuộc sống. Vấn đề đốt vàng mã trong các nghi thức cầu cúng gây lãng phí tiền bạc mà không có lợi ích thiết thực. Có một số người không hiểu đạo lý đón xuân và xem cả mùa xuân là mùa ăn chơi trác táng và quan niệm rằng: “Tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè!”. Những quan niệm sai lầm đó là nét tiêu cực phải loại bỏ! Mùa xuân trong tín ngưỡng Phật giáo được phổ cập trong các sinh hoạt thiền môn. Phật giáo khuyên hóa mọi người làm việc thiện và sống có chánh kiến. Như đến chùa lễ Phật, nghe pháp, tu các hạnh lành để vun bồi phúc đức và trí tuệ. Nhà Phật khuyên mọi người tin sâu nhân quả, như muốn giàu sang phải tu hạnh bố thí, muốn khỏe mạnh phải có tâm từ bi không giết hại sanh linh. Muốn cho gia đạo bình an phải biết tu tập mười điều thiện. Muốn có trí tuệ phải học theo lời Phật dạy.

 Khi đón giao thừa, tụng kinh tán thán phẩm hạnh Phật và Bồ tát, đặc biệt là Bồ Tát Di lặc. Thay vì tổ chức cúng thần linh trong rằm tháng giêng, thì khuyên mọi người đi chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để thân tâm an lạc, tai nạn tiêu trừ. Tụng kinh để hiểu rõ nhân quả, hiểu rõ nguyện lực của Phật và Bồ tát. Thực hành Văn, Tư, Tu trong đời sống hằng ngày. Văn là nghe lời Phật dạy, tư là suy nghĩ, chiêm nghiệm lời dạy đó, tu là thực hành Phật pháp vào đời sống một cách có chánh kiến.

5-  Lời kết

Thông qua lễ tết cổ truyền, chúng ta phát huy nét đẹp Phật giáo trong đời sống văn hóa con người. Đạo Phật đi vào đời là từ nhu cầu và lợi ích cho con người mà mở bày phương pháp tu tập. Tu là sự chuyển hóa từ mê tín thành chánh tín, chuyển hóa tinh thần cầu thần ban phước thành lời phát nguyện trọn đời tin sâu nhân quả, làm việc lành để xây dựng cuộc đời hạnh phúc. Trong thế giới ngày nay nhiều cảnh đau thương và thù hận, chỉ có đạo lý từ bi, hỷ xả mới hướng con người sống đời an lạc, hòa bình. Cho nên hình Phật Di Lặc trong mùa xuân là thông điệp từ bi và giải thoát đến với con người trong mọi thời đại. Tinh thần đón mừng xuân Di Lặc là nét đặc sắc chuyển tải giá trị đạo đức Phật giáo thông qua các sự kiện lễ hội trong nhân gian. Đó thể hiện tinh thần nhập thế của Đạo Phật vào các sinh hoạt văn hóa con người và nhân loại./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/08/2017(Xem: 6872)
Thưa đại chúng, hôm nay là ngày 01 tháng bảy năm 2017, tại tu viện Thiện Hòa, thành phố Moenchenladbach , Đức quốc. Tôi có duyên với quý vị trong giờ phút này, và tôi xin chia sẻ pháp thoại “Đức Phật A Di Đà trong đời sống của tất cả chúng ta”.
10/05/2017(Xem: 6889)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6505)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8300)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4055)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5525)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16457)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11398)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9730)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 14165)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567