Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Niệm Thánh hiệu Di Đà là gây nhân Phật

13/04/201203:21(Xem: 11352)
12. Niệm Thánh hiệu Di Đà là gây nhân Phật

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Niệm Thánh hiệu Di Đà là gây nhân Phật

Chư thiên hữu hành trì pháp môn niệm Phật! Quý vị mỗi ngày thường xuyên niệm Phật sáng tối hai thời, hoặc có người nhiều hơn nữa từ năm đến mười ngàn câu. Tự mình nhận biết phước mỏng tội dày, không chút thiện căn nhưng nhiều ác nghiệp; vì vậy mà hằng ngày nên chuyên cần tinh tấn niệm phật không gián đoạn. Khi đi đứng lúc nằm ngồi, mỗi giờ mỗi khắc đều phải nhiếp tâm vào câu Phật hiệu. Ta tự biết tội chướng không tự nhiên mà tiêu diệt, phước đức thiện căn không nguyên nhân mà phát khởi. Muốn tiêu diệt ác nghiệp, tăng trưởng phước đức, thì phải gắn công thường xuyên niệm Phật tinh cần hằng ngày không gián đoạn. Chúng ta biết lửa đang cháy thì phải cần nước để dập tắt; nhưng một ly nước lạnh không thể dùng để làm tắt một khu rừng đang cháy. Muốn cho khu rừng hết cháy thì phải cần đến nhiều đoàn xe cứu hỏa có khi phải dùng máy bay từ trên không thả bột chữa lửa xuống thì mới có thể làm tắt được lửa. Cũng vậy, một câu niệm Phật không thể tiêu tan được nghiệp ác nhiều đời, mà phải chuyên cần tinh tấn niệm Phật hàng ngày thì ác nghiệp mới tiêu, phước đức từ đó mà tăng trưởng. Chư vị nhìn thấy chỉ vì sợ hãi đem tâm niệm Phật mà người tiều phu đã gây được nhân hạnh Bồ Đề để sau thời gian 80 ngàn đại kiếp gặp được Phật Thích Ca hóa độ; huống hồ ta chuyên cần niệm hàng ngày niệm Phật thì làm gì mà vãng sanh Tây Phương không có phần!

Tùy theo sức niệm Phật chuyên cần hằng ngày của ta nhiều ít, tín, hạnh, nguyện sâu cạn mà ta được vãng sanh về cõi Cực Lạc trong nhiều phẩm vị khác nhau; từ thượng phẩm thượng sanh đến hạ phẩm hạ sanh: thượng, trung, hạ phẩm, mỗi phẩm chia làm 3 phần; thượng, trung, hạ cộng chung là chín phẩm vị khác nhau từ thấp lên cao để đón chờ người niệm Phật cầu vãng sanh. Niệm Phật nhập tam muội, đạt được lý nhất tâm lên thượng phầm; đạt sự nhứt tâm sanh trung phẩm; nương nơi tín, hạnh, nguyện vững chắc nhưng chưa nhứt tâm sanh được hạ phẩm thượng, trung sanh. Những người thiện ác sâu dày thiện căn quá ít; nhưng lại được cơ duyên thiện hữu tri thức hướng dẫn quay đầu niệm Phật, sám hối tội ác từ trước cầu sanh Tây Phương một lòng tha thiết; tín, nguyện có nhưng hạnh chưa đủ có thể đới nghiệp vãng sanh về Tây Phương ở hạ phẩm hạ sanh. Sáu chữ Di Đà có năng lực diệt tan được bao tội lỗi phiền muộn trong tâm thức của chúng sanh mê mờ vô thủy; xin thỉnh chư vị hãy chuyên cần niệm Phật. Vãng sanh Tây Phương không cần ở phẩm vị cao; vì tất cả chúng sanh ở đây không còn dục nhiễm sanh, chỉ toàn hóa sanh nơi liên hoa, nhục thân thanh tịnh; đồng một thể với Pháp thân Bồ Tát, tâm niệm bất thối, đạo tâm viên mãn đồng với chư Phật, quả vị chánh giác gần kề không xa.

Nhân đây nên biết, niệm Phật là Phật nhân, vãng sanh Tây Phương gặp Phật nghe pháp viên thành đạo quả là Phật quả, thỉnh chư vị hãy niệm Phật tinh chuyên mà cầu sanh Cực Lạc!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 5532)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 6514)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 6075)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 10433)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 5049)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3955)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 7079)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 7863)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 13916)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]