Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Công đức sáu chữ Di Đà

13/04/201203:21(Xem: 8763)
02. Công đức sáu chữ Di Đà

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Công đức sáu chữ Di Đà

Thiền Tông lấy sự thấy tự tánh để làm nhân hạnh tu tập, sau đó có kết quả là giác ngộ thành Phật. Chúng sanh từ nhiều đời bị vô minh che lấp tự tánh, không tự mình nhìn thấy được ánh sáng chiếu diện nơi tự tâm, giống như mây mờ che ánh sáng mặt trời vào mùa đông. Hôm nay nhờ thiền tập, vén được màn vô minh nhìn thấy được tự tánh vốn hằng thường trong sáng. Từ nơi đây hành giả lặn sâu vào tàng thức lấy trí tuệ diệt tận gốc rễ sự vô minh u tối của phiền não để hiển bày toàn bộ chơn giác mà xưa nay sẵn có; nên gọi là giác ngộ, là thành Phật. Giống như mây tan thì ánh sáng mặt trời sẽ hiển lộ, chiếu rọi khắp muôn phương vô phân biệt. Nhưng muốn thấy được tánh, tức mỗi thời khắc trôi qua thân phải thiền tập, ý phải gạn lọc tư tưởng rời xa phiền não, luôn ở trong chánh niệm. Cũng có nghĩa là mỗi thời khắc phải rời xa ác nghiệp, thực hành thiện nghiệp cho đến khi nhìn thấy được tự tâm.

Cũng vậy, liên hữu niệm Phật, là niệm tự tánh Di Đà. Vì mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh không khác khi ẩn tàn trong mỗi sắc thân ngủ uẩn khác nhau của từng loại chúng sanh. Phật tánh cũng không thêm khi thành Phật, và không bớt đi khi đọa vào địa ngục. Vả lại Phật Phật đồng nhất thể; vậy thì tọa thiền để thấy tự tánh, giác ngộ thành Phật, không khác gì khi chúng ta niệm Phật để hiển bày tự tánh Di Đà. Tự tánh Di Đà là Phật nhân, sanh về Tây Phương Cực Lạc gặp Phật Di Đà, tu, nghe pháp, chứng ngộ thành Phật là Phật quả.

Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật - Nhưng vì xưa nay phiền não nghiệp chướng của ta quá dày nên Phật nhân không có cơ hội phát triển. Vậy, ta niệm Phật, tiếng niệm Phật từng giờ từng phút gieo vào tâm tưởng vọng động của ta; bao nhiêu những thứ vọng tưởng ác nghiệp lần hồi tan biến, và, thiện nghiệp phước huệ sẽ hiển bày.

Chúng ta niệm Phật muốn hiểu bày tự tánh Di Đà, thì hằng ngày phải tinh chuyên đừng để tâm thối lui. Giống như em bé vừa sanh, người mẹ phải hằng ngày chăm sóc cho em bé cẩn thận, cho em bé bú sữa, cho em bé ngủ lớn, lớn lên một chút cho ăn cháo cơm,… phải chăm sóc thường xuyên. Nếu người mẹ cho em bé bú sữa một ngày; hai ba ngày không cho bú, hoặc em bé khóc mà không tìm cách làm cho em bé nín, bỏ em bé vào những nơi có ánh nắng mặt trời buổi trưa… Như vậy chẳng những em bé không thể lớn mà có nguy cơ mất mạng. Cũng vậy, niệm Phật muốn thấy được tự tánh Di Đà, muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc, mà không tinh chuyên, một ngày niệm năm ba ngày nghỉ, hoặc niệm mà chỉ muốn cầu chút ít phước đức hữu lậu ở cõi trời và cõi người thì chúng ta sẽ không đạt được công đức vô lượng vô biên của sáu chữ Di Đà. Những công đức ấy sẽ bị hạng hẹp ở nơi hữu lậu; giống như em bé bị bệnh hoạn ốm yếu do người mẹ chăm sóc không chu đáo.

Em bé mỗi ngày được bú sữa thường xuyên, và được chăm sóc cẩn thận thì sẽ lớn lên một cách mập mạp dễ thương đầy đủ sức khỏe. Cũng thế niệm Phật tinh chuyên, siêng năng, đầy đủ tín, hạnh, nguyện, thì ta nhất định sẽ thấy được tự tánh Di Đà, nhất định sẽ sanh về Tây Phương, và sẽ thành Phật.

Thấy tự tánh Di Đà hay sanh về Tây Phương cũng có nghĩa là đã dứt trừ được phiền não vô minh, kiến hoặc tư hoặc, chuyển tâm phàm phu nơi thế giới Ta Bà đau khổ thành tâm thanh tịnh của Thánh Chúng nơi Cảnh giới Cực Lạc, chuyển thức thành trí, mà, hiển bày được vô lượng công đức. Vì niệm Phật đạt được công đức vô lượng vô biên như thế, cho nên chúng ta ai là người đang tu pháp môn niệm Phật thì nên cố gắng niệm thường xuyên hơn; ai chưa chọn pháp môn niệm Phật, thì nay nên phát tâm chọn pháp môn niệm Phật để tu; tất cả chúng ta nên niệm Phật với đầy đủ tín, hạnh, nguyện,vững chắc để cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc, thấy Phật Di Đà, nghe pháp, chứng quả vị bất thối, hành trì hạnh Bồ Tát tiến vào Phật quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2012(Xem: 5111)
Sanh tử là vấn đề ai cũng phải trải qua nhưng không phải ai cũng có thể hiểu rõ bản chất của nó. Đứng trên quan điểm nhị nguyên, sanh tử được cho là hai thái cực trái ngược nhau và do đó nhân loại luôn tìm cách kéo dài sự sống mà lý tưởng của nó là trường sanh bất tử. Dù có nỗ lực vượt bậc, con người cũng không thể đạt được mục tiêu ấy vì lý do đơn giản, đó là quy luật của tạo hóa. Trong khi chấp nhận sự thật sanh tử, con người lại tiếp tục tìm cách lý giải hiện tượng sau khi chết với hai thái cực trái ngược nhau là không còn gì tồn tại sau khi chết (đoạn kiến) và vẫn còn sự tồn tại sau khi chết. Ở thái độ thứ hai, lại có nhiều quan điểm khác nhau. Có thuyết cho rằng linh hồn (tâm) tồn tại bất biến hay bất diệt[1](thường kiến), có thuyết cho rằng sau khi chết linh hồn tội lỗi phải chờ đợi đến ngày phán quyết cuối cùng để hoặc lên thiêng đàng hay đọa địa ngục do Chúa quyết định (Cơ đốc giáo, Hồi giáo…).[2]Phật giáo cũng khẳng định sau khi chết con người không mất hẳn mà tiếp tục luân
15/02/2012(Xem: 5408)
Phật giáo đề cập đến súc quyền như thế nào? Xuyên qua hàng trăm triệu Phật tử trên thế giới, có sư bất đồng về vấn đề cơ bản này. Lần đầu tiên tôi bỗng nhiên thích thú Phật giáo bởi vì hai nhà hàng yêu thích của tôi (Buddha’s Vegetarian Food và Lotus Garden, cả hai ở trên hướng nam đường Dundas Street bangToronto) là Phật tử, và rất cẩn thận chỉ để phục vụ thức ăn chay không có trứng. Trong một nhà hàng mà tôi cho rằng việc này là cần thiết vì các tu sĩ Phật giáo và các nữ tu ăn ở đây. Điều này giúp tôi hiểu rằng Phật giáo có lời nguyền đối với súc vật thực sự rất rất nghiêm túc.
15/02/2012(Xem: 6230)
Quan điểm phủ nhận về một đấng Toàn năng và Vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng thế và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của Đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
07/02/2012(Xem: 4506)
Đã tạo nên một thái độ bình đẳng đối với bạn hữu, kẻ thù, và người trung tính, chúng ta có một nền tảng để nhìn mỗi con người như người bạn thân nhất của chúng ta. Khuynh hướng bây giờ là để phát triển một cảm giác chân thật về sự mật thiết với mọi người. Vì sự mến chuộng được phát sinh một cách dễ dàng cho bạn hữu, chúng ta cần một kỷ năng cho việc trau dồi việc nhận thức tất cả chúng sinh như bạn hữu, sử dụng chính những mối quan hệ thân hữu nhất của chính chúng ta như kiểu mẫu. Ai là người bạn thân nhất của chúng ta?
03/02/2012(Xem: 20003)
Theo lời đức Phật Thích Ca, thế giới Ta Bà có nhiều đau khổ, nên Ngài giới thiệu cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, là một thế giới hoàn toàn an vui, không còn đau khổ, để chúng sanh tu hành phát nguyện vãng sanh về cõi ấy. Thế giới ấy cũng gọi là cảnh giới Tịnh Độ, Chánh báo (thân người), Y báo (hoàn cảnh sống) trang nghiêm, thanh tịnh.
01/02/2012(Xem: 10511)
Muôn nhờ Đức Phật từ bi Giải oan cứu khổ độ về Tây Phương (Nguyễn Du) Mỗi khi gặp nhau, những người Phật tử Việt Nam thường chào hỏi với nhau bằng cách chắp tay trước ngực và niệm danh hiệu Đức Phật Di Đà, và khóa tụng kinh buổi tối thì gần như hầu hết các chùa, nhất là các chùa ở miệt nhà quê không gọi là đi tụng kinh mà gọi là đi Tịnh Độ. Điều ấy chứng tỏ rằng tín ngưỡng Di Đà đã gần như được tuyệt đại đa số xuất gia cũng như tại gia, trí thức cũng như bình dân đều hết lòng tin theo và thọ trì.
18/01/2012(Xem: 6406)
Trong hiện tại con thấy rằng thật không thể chịu nổi vì người thân của con khổ đau, nhưng con vui thích khi kẻ thù con đau khổ, và con dửng dưng đến khổ đau của những người không liên hệ. Tông Khách Ba, Đại Luận Con Đường Tiệm Tiến - Lamrim [1] Từ nền tảng bản chất thật sự của tâm, chúng ta cần phát triển từ ái và bi mẫn thật mạnh mẽ rằng khổ đau của người khác trở nên không thể chịu nổi. Vì từ ái và bi mẫn phải được cảm nhận một cách bình đẳng cho tất cả mọi loài chúng sinh, sức mạnh của những thái độ này sẽ tùy thuộc trên mức độ của sự gần gũi hay thân thiết mà chúng ta cảm nhận cho người khác.
07/01/2012(Xem: 5276)
Tâm ý không mang bản chất thương hay ghét, thích hay không thích. Tâm ý (mind) có nghĩa là “khả năng hiểu biết” (knowing faculty), “khả năng tri nhận” (cognizing faculty).
03/01/2012(Xem: 5230)
Có thể loại trừ những cảm xúc rắc rối một cách hoàn toàn, hay có thể chỉ có đè nén chúng mà thôi? Theo tuệ giác căn bản của Đạo Phật, tâm một cách cốt yếu là sáng rở và tri nhận. Do thế, những rắc rối cảm xúc không thể lưu trú trong bản chất của tâm; những thái độ chướng ngại ẩn tàng là tạm thời và nông cạn, và có thể bị loại trừ.
02/01/2012(Xem: 20760)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]