Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[31 - 41]

06/04/201214:48(Xem: 4531)
[31 - 41]

TỊNH ĐỘ VẤN ĐÁP

Tỳ kheo Thích Giác Nhàn sưu tập

31/Hỏi: Tạp niệm từ đâu sinh?

Đáp: Tâm ta chỉ có một niệm, niệm Phật tức là nó, tạp niệm cũng là nó. Chỉ nhân ta niệm Phật chưa tinh chuyên, nên niệm trần còn vẩn vơ đó thôi.

32/Hỏi: Làm sao trừ được tạp niệm kia?

Đáp:Không cần phải trừ, chỉ đem tâm niệm hoàn toàn để lên danh hiệu Phật, tạp niệm lần lần tan biến.

33/Hỏi: Nhưng rủi tinh lực yếu kém suy mỏi, không thể khiến cho nó tiêu mất, phải làm sao?

Đáp: Người đạo lực chưa thuần thục nên tán loạn nhiều, phải thâu nhiếp sáu căn lần lần sẽ được thanh tịnh. Nếu chưa làm được như thế, thì mở mắt nhìn chăm chú tượng Phật mà niệm hoặc nhắm mắt chuyên tưởng chân dung mà niệm, tạp niệm sẽ tiêu.

34/Hỏi: Cách ấy cũng hay, nhưng sợ e lần lần mỏi mệt tạp niệm lại nổi lên thì sao?

Đáp: Trong tâm mờ tối, nên bị ngoại cảnh kéo lôi, niệm Phật không đắc lực, thậm chí vọng niệm dày đặc không tan. Nhưng đừng vội vàng nóng nảy, phải lắng định tâm tư, niệm chậm rãi hiệu Phật ra từ nơi tâm, phát thành tiếng nơi miệng, rồi lại vào nơi tai, tự tâm nghĩ miệng niệm tai nghe tiếng niệm. Cứ tuần tự như thế vọng niệm sẽ lần lần tiêu mất.

35/Hỏi: Phương pháp trên quá hay chỉ e người căn tánh quá tối, không làm được lại phải làm sao?

Đáp: Nên đem sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” mà niệm. Khi niệm ghi nhớ rành rẽ tiếng thứ nhất là Nam, tiếng thứ hai là Mô, tiếng thứ ba là A, tiếng thứ tư là Di, như thế đủ sáu chữ, liên hòa không dứt, thì vọng niệm không còn chỗ xuất sinh. Đây là phương cách tuyệt diệu nên ghi nhớ rõ.

36/Hỏi: Dụng tâm thế nào mà không bị tán loạn?

Đáp: Nên vận dụng thân, miệng, ý mà niệm, không để ý đến tán hay định, chỉ làm sao cho câu niệm Phật không hở dứt, tự sẽ được nhất tâm, hoặc cũng có thể gọi chính nó là nhất tâm. Nhưng phải niệm mãi không thôi, giống như mẹ lạc con thơ, rồng mất trái châu bổn mạng, thì không còn lo gì tán loạn, không cầu nhất tâm mà tự được nhất tâm. Chẳng nên cưỡng ép cho quy nhất, vì dù cưỡng ép cũng không thể được, thật ra chỉ do người tu siêng năng hay biếng trễ mà thôi! Nghĩ thương cho người đời nay, phần nhiều tu mà không hiệu nghiệm, ấy cũng bởi lòng tin còn cạn cợt, nhân hạnh không chân. Lắm kẻ chưa từng lập hạnh, đã muốn cho người biết trước, trong thì tự phụ, ngoài lại khoe khoang, tỏ ý chỗ sở đắc, để được mọi người cung kính, thậm chí có kẻ nói dối là mình đã trông thấy tịnh cảnh, hoặc thấy được cảnh giới nhỏ, hay những tướng tốt trong giấc chiêm bao. Thật ra chính họ cũng không phân biệt đó là chân hay vọng, nhưng cũng cứ khoe khoang bừa ra. Những kẻ tâm hạnh kém ấy, tất bị ma làm mê hoặc, nguyện hạnh lần lần lui sụt, trôi theo dòng sinh tử luân hồi. Như thế há chẳng nên dè dặt ư?

37/Hỏi: Niệm hồng danh đức A Di Đà Phật, có thể tiêu trừ nghiệp vô minh tăm tối và được vãng sinh, sao có người xưng niệm mà vô minh vẫn còn, lại không mãn nguyện là duyên cớ gì?

Đáp:Do không như thật tu hành, cùng với danh nghĩa không hợp nhau, ấy chẳng biết Như Lai là chân thật tướng. Lại có ba thứ không tương ưng:

1. Là lòng tin không thuần, khi còn khi mất.

2. Là lòng tin không quy nhất, thường đổi thay không quyết định.

3. Là lòng tin không được tương tục hằng bị tạp niệm làm cho gián đoạn.

Cho nên khi niệm Phật phải nhiếp tâm đừng cho tán loạn, nếu niệm được tương tục tức là tín tâm, là nhất tâm, là thuần tâm. Niệm như vậy mà không được vãng sinh là vô lý.

38/Hỏi: Niệm Phật có mấy cách?

Đáp:Niệm Phật có hai cách, niệm ra tiếng và tưởng niệm.

Niệm ra tiếng cũng như trong tụng kinh nhưng chỉ dùng một câu danh hiệu Phật thôi. Tụng kinh là phải ở trước bàn thờ, còn niệm danh hiệu thì ở đâu cũng được.

Tưởng niệm là tự mình buộc lòng nhớ nghĩ đến danh hiệu Phật.

39/Hỏi: Niệm danh hiệu Phật cũng được lợi ích như tụng kinh chăng?

Đáp:Tâm của mỗi người vốn thanh tịnh. Nay phải bị khổ vì nhơ nhiễm tưởng, như là tham muốn, hy vọng, mong cầu, tranh đoạt, luyến tiếc, giữ gìn, lo lắng, buồn phiền, chán nản, thất vọng, giận hờn, oán trách, sợ hãi, e ngại, v..v.. Chúng nhơ nhiễm tưởng này thay phiên nhau đến với ta. Vì thế nên cần phải thủ sẵn câu danh hiệu Phật, để niệm lên hầu chặt đứt các thứ tư tưởng nhơ nhiễm đó. Chúng nhơ nhiễm tưởng không còn, thì tâm mới được yên nghỉ, tâm được yên nghỉ, là người đắc được an lạc.

Công dụng của sự niệm Phật đặc sắc hơn tụng kinh. Vì sao? Bởi nhơ nhiễm tưởng lúc nào cũng phát sinh. Còn câu danh hiệu lúc nào cũng có thể niệm được. Vì được lợi ích như vậy nên ngoài thời công phu tụng kinh, phải thường niệm danh hiệu Phật luôn.

40/Hỏi:Muốn giữ một niệm tưởng hằng trụ nơi tâm, để giải thoát ác tưởng, thì dùng danh ngôn nào cũng được, hà tất phải niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà?

Đáp:Lời nói gợi cảm giác. Người nghe một lời nói thành thật, sinh được cảm giác thuơng mến. Trái lại nghe một lời nói xảo trá là sẽ sinh những cảm giác ghét bỏ, sân hận, mặc dù người nghe là người thiện.

Nghe lời nói nào?Tâm sinh cảm giác nào?Rồi cảm giác nào đem đến ảnh hưởng nào?

Tiếng niệm Phật cũng là một lời nói. Niệm tưởng nghĩa là làm cho tâm mình nói để cho tâm mình nghe. Người tu cần nghe âm thanh danh hiệu Phật để hưởng cảm giác an lạc. Bởi kinh nghiệm cho biết âm thanh này có một tiềm lực lành rất mạnh mẽ.

Một câu ca vọng cổ làm cho người nghe buồn khóc được. Bởi đấy là lời sáng tác của một nhạc sĩ đa sầu, đa cảm.

Người nghe tiếng niệm Phật sẽ được một tinh thần sáng suốt, thư thái, an lạc và ổn định. Vì sao? Bởi đây là lời sáng tác của đấng hoàn toàn sáng suốt, hoàn toàn thư thái, hoàn toàn an lạc và hoàn toàn ổn định.

Chúng ta chịu ơn của Đức Phật rất trọng ở các điểm này. Vì sao? Nếu không có Phật chỉ dạy, thì khó mà có được âm thanh tưởng, có đầy đủ năng lực diệu dụng.

Nhờ có âm thanh tưởng của Đức Phật A Di Đà mà người tu trở nên cao quý, được nhiều hiểu biết, hết lầm lạc, giải thoát khổ và thành Phật ở tương lai. Vì lợi ích như thế nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Nhà không phòng bị, cướp đến thình lình, đành chịu mất của. Cũng như lúc sống mà không tu tập niệm Phật, nên khi cái chết đến là đành thọ quả khổ. Dẫu có gặp người khuyên bảo, nhưng tâm niệm yếu ớt, đâu chống trả nổi với những luồng sóng ác nghiệp. Vì vậy, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Mỗi ngày thân thể đều bị dơ bẩn vì bui bặm, nên cần phải tắm rửa mới được khỏe khoắn. Cũng như vậy, tâm mỗi ngày bị những ác tưởng không nhiều thì ít, nên cần phải niệm tưởng danh hiệu Phật, để tẩy bớt uế nhiễm, hầu tâm được tự tại. Vì được lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Người làm điều lành hay điều dữ vì các sự nhớ quên. Vì sao? Nhớ sự việc ác của kẻ khác mới có thể làm ác được. Và nhớ sự việc lành của kẻ khác mới có thể làm lành được. Và quên sự việc lành của ke khác mới có thể làm ác được.

Cái niệm tưởng danh hiệu Phật có năng lực tác dụng làm cho tâm quên sự việc ác và nhớ sự việc lành của kẻ khác. Bởi thế cho nên, điều lành dễ làm mà điều ác khó làm. Vì được lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Các sự khổ lại đều do “thức tâm”. Âm thanh của danh hiệu Phật thành tự cái “thức tâm” thanh tịnh và an lạc.Vậy nên lúc nào muốn giải thoát khổ, là chỉ cần tưởng đến danh hiệu Phật. Luôn luôn được hạnh phúc bình an tĩnh lặng nơi tâm. Vì được lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Người tu hành tưởng niệm danh hiệu Phật, dùng cái tưởng ấy làm nơi ẩn trú tránh được các thứ biết cảm khổ đau làm tổn hại tâm mình. Nên gọi đó là “trụ xứ tưởng giải thoát khổ” cũng như nhà ở che chở được nắng mưa. Vì lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Người tu niệm tưởng danh hiệu Phật, dùng cái tưởng này để quán sát thấy biết những thứ tư tưởng của mình. Nên gọi là “Trụ xứ quán sát”, cũng như đèn pha rọi cho thấy những vật trong đêm tối. Vì lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Người tu niệm tưởng danh hiệu Phật, dùng cái tưởng này để làm hột giống để sinh các thức tưởng bi và giác ở nơi tâm mình. Nên gọi đó là “Phật công đức tưởng tạng” cũng như kho chứa đựng nhiều báu vật của vua. Vì lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Người tu niệm tưởng danh hiệu Phật dứt được những ác tưởng nổi lên bất thần, giải thoát được những thứ biết cảm tổn hại làm khổ, thấy biết phân biệt được các thứ tư tưởng thiện ác ở nơi tâm mình, và sinh được các thứ tư tưởng Đại bi và Đại giác. Vì được lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Con bị khổ chỉ kiếm cha mẹ để nương tựa. Vì kinh nghiệm cho thấy rằng chỉ có cha mẹ mới hết lòng thương con. Cũng thế, người tu bị khổ chỉ niệm tưởng danh hiệu Phật ở nơi tâm mình làm chỗ nương tựa. Với kinh nghiệm cho thấy rằng chỉ có tư tưởng này mới che chở cho mình hữu hiệu thôi. Vì sao? Người bị các khổ nạn hay là sắp chết, thấy tất cả bên ngoài đều bất lực không cứu mình được. Chỉ còn nước niệm Phật mới có thật lực giải thoát được khổ. Vì lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Lúc bị khổ con đến với cha mẹ để được an ủi và cho các thứ đồ chơi để vui mừng. Cũng thế, đương thời bị khổ, người tu niệm tưởng danh hiệu Phật. Cái niệm tưởng này được duy trì vững bền nơi tâm, sẽ sinh ra các kiến thức chân chính an ủi dỗ dành, và cũng đồng thời thành tựu các đức tính lành để thỏa thích. Vì được lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Ở trong đời chẳng ai thương mình bằng mình thương mình cả. Vậy thì phải biết chính mình mới làm được những việc chắc chắn là đem lại hạnh phúc cho mình. Do lẽ đó nên không ỷ lại vào kẻ khác để làm được sự lợi ích cho mình. Vì sao? Mình muốn ngon miệng, thì phải chính mình ăn mới hưởng được vị ngon đó. Cũng thế, với pháp môn niệm Phật thì không ai tu thế cho mình được. Phải chính mình tu mới chắc chắn giải thoát được khổ cho mình. Vì lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Pháp môn niệm Phật là một thứ tâm tưởng. Tâm tưởng này có những năng lực nào ở nơi đức Phật A Di Đà, thì ở nơi người đắc niệm cũng vậy. Vì sao? Chân lý cho biết thể tánh của Phật và tất cả chúng sinh không phải hai. Không phải hai nghĩa là đồng. Bởi cớ đồng thể tánh với nhau nên pháp được niệm ở đâu là bình đẳng tâm thành thành tựu ở nơi đó, nghĩa là chí thành tựu các lực giải thoát khổ ở nơi tâm các niệm tưởng. Và lại đồng thể tánh thì không có riêng khác. Bởi chân lý không có riêng khác của sự đồng thể tánh đó mà biết rằng: mình ở trong tâm Phật và Phật cũng ở trong tâm mình, nên khi tâm mình niệm xoay lại niệm pháp nào của Phật thì mình hoàn toàn hưởng được năng lực tác dụng đã sẵn có của pháp đó. Vì được lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Vì đồng thể tánh với Phật, nên tâm mình niệm tưởng Phật thì các công đức của Phật sẵn có sẽ khởi lên nơi tâm mình để giải thoát cho mình. Các thứ công đức Phật đó cũng gọi là Phật thức. Mà Phật thức cũng tức là Phật tưởng, cũng tức là thân Phật. Có được Phật thức ở nơi tâm mình thì làm sao chẳng được sáng suốt, chẳng được vô úy (không sợ hãi), chẳng được biện tài vô ngại, chẳng được trang nghiêm.v..v.. Vì được lợi ích như thế, nên Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Lại như vầy nữa:

Các hạnh đều do nguyên nhân nơi tư tưởng, cũng tức là trí, còn trí là do nguyên nhân cảm giác, cũng tức là thức. Vậy người niệm tưởng Phật sẽ được Phật trí, vô sư trí, căn bản trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí.v..v.Tâm có được các trí trên thì các hạnh mới tương xứng với quả Phật ở vị lai. Vì được lợi ích như thế nên đức Phật khuyên chúng ta phải thường niệm luôn.

Có những công đức và trí huệ chúng ta tu cả đời mà vẫn chưa được. Nay chỉ niệm một danh hiệu Phật lại được trí và đức hiện khởi nơi tâm mình, thì biết rằng pháp môn niệm Phật “mầu nhiệm” “mầu nhiệm”.

41/Hỏi: Phật nói các pháp tu để đến quả Phật đều là phương tiện. Vậy Tây phương cực lạc thế giới là cảnh giả hay thật?

Đáp:Nếu nhận cảnh giới của loài người là thật, thì cảnh thế giới Tây phương Cực lạc là thật. Bằng nhận cảnh giới của loài người là giả, thì cảnh thế giới Tây phương Cực lạc cũng là giả luôn.Vì sao?

Cảnh thế giới được gọi là giả, là bởi nó không trường tồn vĩnh viễn, có thể bị tâm lực chuyển đổi lúc nào cũng được. Như lời Phật nói trong kinh Kim Cang: “các tướng pháp hữu vi đều như mộng huyễn, như bọt bóng, như sương, như điện chớp”.

Với các lời của kinh này, ý Phật muốn nói cho chúng ta đừng đánh theo các cảnh hoặc sắc tướng không bền vững mà bị khổ.

Người tu còn sợ cảnh ác của thế gian, là nên tạo pháp A Di Đà Phật để đời sau được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực lạc. Bằng tâm cứng cỏi, rắn chắc thì ở thế giới nào cũng được. Vì sao? Tâm thanh tịnh thì ở thế giới nào cũng thanh tịnh. Như người có tâm buồn thì cảnh vui cũng hóa thành buồn, tâm đã được vui thì cảnh buồn cũng hóa vui.

Giữ được tánh Niết Bàn thì ở đâu cũng là thế giới của Phật.

Phật nói: “Pháp giới không thật mà cũng không hư”. Vì sao? Thế giới Tây phương Cực lạc được gọi là không thật là vì khi tâm người tu không còn dính mắc hai tướng khổ lạc nữa.

Còn nghĩa không hư của thế giới Tây phương Cực lạc là đối với những tâm còn bị ngoại cảnh chuyển được. Như vậy có được cảnh Cực lạc để người hưởng lạc.

Bởi thế trước khi chọn pháp tu hãy quan sát trình độ tâm lực của mình!

Nếu mình làm chủ được sự sống chết và không còn run động trước sự quyến rũ của các sắc đẹp, danh lợi, vinh hoa phú quý, run rẩy sợ hãi trước những cảnh khổ đau, đói rét, bệnh tật phân ly, uy hiếp bởi những ham muốn và cạm bẫy của sát thịt, thì chọn pháp nào cũng được, bằng chưa được, nên tạo pháp A Di Đà Phật, để đời sau sinh về thế giới Tây phương Tịnh Độ của Phật A Di Đà là thượng sách.

Hoằng Pháp ngày 01-01-2001

Sưu tập: Tỳ Kheo Thích Giác Nhàn

MƯỜI CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT

  1. Một là, những tội đã tạo từ trước, nhẹ thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành nhẹ
  2. Hai là, thường được thiên thần ủng hộ, tránh được tất cả tai ương, hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.
  3. Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này.
  4. Bốn là các vị Hộ Pháp, Thiện Thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa, ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hãm hại.
  5. Năm là tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sang, mạnh khỏe, an lành, việc làm thuận lợi, được kết quả tốt.
  6. Sáu là chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y phục đầy đủ, gia đình hòa thuận, phước lộc đời đời.
  7. Bảy là, lời nói, việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến, ngợi khen.
  8. Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành, mạnh khỏe, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nếu nhàm chán thân nữ, mệnh chung liền được nam thân.
  9. Chín là vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh về cõi thiên, tướng mạo, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.
  10. Mười là hay vì tất cả chúng sanh trồng các căn lành. Lấy tâm cầu của chúng sanh làm phước điền cho mình. Nhờ được công đức ấy đạt được vô lượng phước thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng được thấy Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật quả.

ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY: Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên khi gặp chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống để trồng cội phước đức cho mình và thân bằng quyến thuộc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8511)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
01/11/2010(Xem: 3932)
Mặc dù không thể nói nhiều nhưng tôi muốn nói ít lời này. Tulku Urgyen Rinpoche và tôi cùng quê quán ở miền Đông Tây Tạng, nhưng chúng tôi vẫn có vẻ rất xa cách nhau. Vào thời ấy chúng tôi không có phương tiện để tới với kỹ thuật tân tiến. Bởi không có máy bay, không xe lửa, không xe hơi nên mọi người phải đi bộ hay đi ngựa, vì thế một khoảng cách mà ngày nay chúng ta thấy dễ dàng vượt qua bằng phương tiện vận chuyển hiện đại thì vào thời đó nó có vẻ rất dài. Mặc dù dĩ nhiên là chúng tôi có nghe nói về nhau, nhưng mãi tới khi lần đầu tiên tôi tới Thung lũng Kathmandu thì chúng tôi mới bắt đầu có một sự nối kết.
30/10/2010(Xem: 4046)
Trước tiên chúng ta phải học “giới học” để thực hành. Nếu không biết giới học, chúng ta không thể nào tịnh hóa những hành vi cư xử của mình. Rồi chúng ta phải học thêm chỉ (samatha) để kiểm soát và tập trung tâm ý. Nếu không biết về thiền chỉ, chúng ta sẽ trau dồi định như thế nào? Nếu không hành định, làm sao chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình? Sau đó, chúng ta phải học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ. Nếu không biết về tuệ học, chúng ta trau dồi trí tuệ ra sao?
29/10/2010(Xem: 4736)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau. Chỉ có những người tu tập thiền định, đi sâu vào nội tâm, chứng được các tầng thiền, hoặc có thiên nhãn thông, túc mạng thông thì mới thấy được kiếp sống quá khứ và vị lai.
26/10/2010(Xem: 4079)
Đề mục kinh này vô cùng rõ ràng, nội dung cũng rất đơn giản, trong sáng, thiết yếu. Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh. Trong pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đều biết đến đạo lý “tâm tịnh cõi nước tịnh”.Do đây biết rằng: đối với việc tu học Tịnh Độ tông, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu. Người phiên dịch bộ kinh này là ngài Thi Hộ, Ngài là người ngoại quốc đến Trung Quốc hoằng pháp vào thời Nam Bắc Triều.
23/10/2010(Xem: 9592)
Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I)
22/10/2010(Xem: 4229)
Mỗi một trong vô lượng cuộc đời của chúng ta từ vô thuỷ, chúng ta phải có những bậc cha mẹ. Vào lúc này hay lúc khác, mỗi một chúng sinh duy nhất hẳn đã từng là mẹ hay cha của ta. Khi chúng ta nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh này - những người từng là cha mẹ của chúng ta - đã phải lang thang quá lâu và không người cứu giúp trong vòng luân hồi sinh tử giống như những người mù lạc đường, thì chúng ta không thể không cảm thấy một lòng bi mẫn lớn lao đối với họ. Tuy nhiên, tự bản thân lòng bi mẫn thì không đủ; họ cần sự giúp đỡ thực sự.
22/10/2010(Xem: 4831)
Một Giáo lý của Jetsunma Ahkon Lhamo Trong Phật Giáo Kim Cương thừa – là hình thức Phật Giáo được bảo tồn ở Tây Tạng và Mông Cổ và là một tông phái được tu hành ở chùa của tôi – một trong những giáo lý căn bản làsự hiểu biết và thực hành lòng bi mẫn. Cá nhân tôi nhận ra rằng một triết học tôn giáo được đặt nền trên lòng bi mẫn vô ngã mang lại cho ta một sự hài lòng sâu xa và tôi tin rằng nó đánh trúng tình cảm của nhiều người Mỹ.
21/10/2010(Xem: 4313)
Ở Solu Kumbu mọi người lớn tuổi đều quay Bánh Xe Cầu nguyện mỗi ngày. Khi họ ở nhà vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, họ cầm một mala (chuỗi hột) trong bàn tay trái, một Bánh Xe Cầu nguyện trong bàn tay phải, và trì tụng thần chú OM MANI PADME HUNG. Và khi họ đi vòng quanh, họ liên tục quay Bánh Xe Cầu nguyện và tụng OM MANI PADME HUNG.
19/10/2010(Xem: 4655)
Một lần, khi Đức Phật nhuốm bệnh ở Beluvà, trước sự lo âu buồn khổ của tôn giả Ananda (Trường III, trang 101), và một lần khác, trước tin tôn giả Sàriputta (Xá lợi Phất) đã mệnh chung và trước sự lo âu của tôn giả Ananda (A Nan) (Tương V, 170), Đức Phật đã tuyên bố lời dạy này, vừa là lời chỉ dạy tóm thâu mọi phương pháp tu hành của ngài được cô đọng lại, và cũng là một lời trăn trối của một bậc Đạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn nhủ và khích lệ đệ tử của mình những gì các đệ tử cần phải tu tập, sau khi bậc Đạo sư viên tịch...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567