Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[11 - 20]

06/04/201214:48(Xem: 4470)
[11 - 20]

TỊNH ĐỘ VẤN ĐÁP

Tỳ kheo Thích Giác Nhàn sưu tập

11/Hỏi:Nếu niệm Phật mà sinh về Tịnh độ, thì chẳng là trái hẳn với cái lý vô sinh chăng? Huống chi người đời nay, ai ai cũng nghi nước Cực Lạc xa cách đến mười vạn ức cõi Phật e lúc lâm chung khó nỗi đi đến đó được, thì lấy cái thuyết gì mà nói cho họ hiểu được?

Đáp: Ngài Thiên Thai nói rằng: “Người trí hăng hái cầu sinh về Tịnh độ nhưng thông suốt cái sinh thể vẫn không có, tức là sinh mà thiệt không sinh. Còn kẻ ngu thà bị cái sinh ấy ràng buộc, hễ nghe nói sinh thì chắc rằng sinh thật; chớ có biết sinh tức là không sinh, mà không sinh tức là sinh đâu!

Ngài Trường Lô nói rằng: “ Lấy sinh làm sinh thật, tức là lỗi về phần thường kiến, lấy không sinh làm không sinh thật, tức là lầm về đoạn kiến. Còn như sinh mà không sinh và không sinh mà sinh, ấy mới thật là nghĩa đế thứ nhất”.

Ngài Thiên Y lại nói rằng: “Sinh thì quyết định sinh, mà đi tới thì thật không đi tới đâu cả”.

Cứ như lời nói của ba Ngài dẫn chứng trên đó, thiệt ý nghĩa rất minh bạch.Vậy nay xin lấy hai chữ “Tánh tương” mà giải rõ cái lý “sinh và không sinh” ra dưới đây:

Cái diệu tánh chân như của ta vẫn là thanh tịnh như gương trong, như nước đứng, không động không lay, không đi không tới, đó là nghĩa “Không sinh”. Nhưng vì nhân duyên hòa hiệp mà hiện có cái tướng “sinh”, cũng như tượng ở trong gương, bóng ở trong nước, đó nghĩa là “sinh”.

Bởi tánh hay hiện tướng, cho nên không sinh mà tức là sinh; còn tướng do nơi tánh mà hiện ra, chớ tự thể không có, cho nên sinh mà tức không sinh. Như vậy thì biết sự sinh về Tịnh độ có trái gì với cái lý vô sinh đâu!

Chí như sự nghi cõi Cực Lạc là xa, thì trước đã nói: Ngoài tâm không độ, ngoài độ không tâm, là hết lý rồi; còn có chuyện gì mà nói nữa.

Chúng ta chỉ nhận lầm cái tâm ở trong xác thịt mà chẳng biết tâm lượng của ta vẫn là to lớn; thập phương hư không tuy rộng, mà cái tâm ta bao trùm hết thảy,hằng sa chư Phật tuy nhiều, mà tâm ta quán khắp tất cả.

Vậy thì mười vạn ức cõi Phật cũng ở trong tâm ta, chớ ta phải đi đâu mà gọi rằng xa. Còn đến khi mạng chung vãng sinh thì cũng sinh trong tâm ta, chớ ta phải về đâu mà gọi rằng khó.

Trong Quán Kinhnói rằng: “Quốc độ của Phật Di Đà cách đây không xa”.

Còn trong Tự tín lục lại nói rằng: “Tuy cách mười vạn ức cõi trong giây lát đi đến”.

Huống chi sự sinh về Tịnh độ cũng như người ngủ chiêm bao thân tuy nằm tại giường tâm ý thức đi khắp phương nọ phương kia, cái đi ấy có phải là xa đâu.

Nay cứ lấy cái tâm ở trong xác thịt của người mà thí dụ như vậy, đủ hiểu:

Giả như ở nước ta sang nước Pháp, đi đường biển gần một tháng mới tới, thiệt xa biết bao nhiêu! Nếu có người nào lâu nay tuy chưa đi tới mà đã từng xem sách, hay là nghe kẻ khác thuật chuyện cảnh trí và nhân vật ở bên nước Pháp lại ghi nhớ vào tâm, rồi ngày sau, bất luận trong lúc đi đứng nằm ngồi hễ chợt nhớ đến chuyện bên nước Pháp, thì tự nhiên tâm nghĩ tới liền.

Nếu chúng ta biết lấy đó mà so sánh, thì cái lý “sinh về Tịnh độ” cũng dễ và cũng mau như vậy chớ không khác gì.

12/Hỏi:Trong Quán Kinh nói rằng: “Hoặc có kẻ chúng sinh nào làm những sự ngũ nghịch thập ác, đủ điều bất thiện, đáng lẽ bị đọa vào địa ngục mà thọ khổ, nhưng đến lúc lâm chung gặp người tri thức khuyên bảo niệm “Nam mô A Di Đà Phật” mười lần rồi cũng vãng sinh về Tịnh độ, thì có lý gì mà lại được dễ như thế?

Đáp:Cứ như trong Quán Kinh nói đó, là vì niệm Phật được tiêu tội lỗi và lại nhờ có nguyện lực rộng lớn của Phật Di Đà, nên được vãng sinh.

Nay giải thích thêm ba nghĩa như dưới đây:

1/ Những người đến lúc lâm chung, là sự bỏ thân rất gấp. Vì gấp nên sợ, vì sợ nên niệm, tuy có ít mà tâm quyết đoán, sức dõng mãnh gấp hơn ngày thường đến thiên vạn ức phần, cảm đến Phật, tiếp dẫn cho vãng sinh.

2/ Những người tuy là tạo ác, mà lúc hiện thế đã thường tu pháp tam muội nên khi lâm chung, gặp người khuyên bảo niệm Phật, thì định tâm để được thành tựu, hay là lúc hiện thế không tu, mà nhờ có thiện nghiệp kiếp trước nên khiến người trí thức khuyên bảo được thập niệm thành công như vậy.

3/ Nếu những người ấy không phải thiện nghiệp kiếp trước và không phải hiện tu kiếp này thì trong lúc niệm Phật, chắc có lòng hối tội rất thiết nên niệm Phật được nhất tâm, vãng sinh về Tịnh độ được.

13/Hỏi: Những người ở đời ngũ trược ác thế này, nếu không phạm tội lớn, thì cũng phạm tội nhỏ, chớ ai lại khỏi được: hằng không sám hối cho tiêu diệt mà chỉ niệm Phật trong lúc lâm chung, chắc có thể vãng sinh được không?

Đáp: Nếu trong lúc lâm chung mà giữ được chánh niệm, thì toàn nhờ cái nguyện lực rộng lớn của đức Phật Di Đà, chắc được phần vãng sinh.

Trong kinh Na Tiênnói rằng: “Nếu chất trăm cục đá lớn để lên trên thuyền, nhờ sức thuyền chở khỏi chìm; nếu không có thuyền, thì dẫu một viên đá nhỏ cũng phải bị chìm.

Đó là thí dụ về những người ở thế, nếu một đời làm ác mà lúc lâm chung biết hồi tâm niệm Phật, chẳng đọa vào địa ngục. Còn như người không chịu niệm Phật, tuy làm điều tiểu ác, cũng phải đọa vào địa ngục, huống chi là đại ác”

Vậy thì biết rằng Phật lực dụ như chiếc thuyền, còn ác nghiệp thì như cục đá. Lý cũng rõ ràng như vậy:tưởng không sự gì nghi nữa.

Coi như thủa xưa, người ở Châu Phần lấy nghề giết trâu mà làm phương sinh nhai, đến lúc lâm chung thấy một bầy trâu theo húc báng trong thân thể, đau đớn vô cùng.

Còn Trương Chung Quỳ lấy nghề làm thịt gà độ nhật, đến khi gần chết, thấy một vị thần nhân lùa bầy gà vô mổ hai con mắt, máu chảy đầy giường, hai người ấy ác nghiệp rất nặng như vậy, biết hồi tâm niệm Phật, rồi cũng đều được vãng sinh về Tây Phương cả. Vậy chẳng phải là nhờ có nguyện lực của đức Di Đà hay sao?

Cho nên trong sách Tây tư saonói rằng: “Sự được sinh về Tịnh độ là nhờ có Phật lực: Đức Di Đà thì nghiệp tiếp dẫn, đức Thích Ca thì khuyên khen, còn các đức Phật khác thì hộ niệm, cũng như người đi qua biển lớn, đã được chiếc thuyền to, lại có người dẫn đường và gặp được gió thuận nữa, chắc mau tới bên bờ kia được”.

Nay chúng ta muốn qua khỏi biển sinh tử, đặng tới cõi Niết Bàn, vậy có chịu lên thuyền đại nguyện mà đi, hay là đành một bề chấp mê ở trong dòng ngũ trược này thọ khổ?

14/Hỏi:Những người một đời tạo ác để đến lúc lâm chung mới niệm Phật, rồi cũng nhớ cái nguyện lực của đức Di Đà tiếp dẫn cho vãng sinh, không thối chuyển nữa, vậy thì chúng ta cứ lo làm việc thế gian, để đợi lúc lâm chung rồi sẽ niệm Phật được không?

Đáp: Câu hỏi ấy chẳng những lầm nội phần mình mà thôi, lại làm cho kẻ tăng người tục, không biết bao nhiêu người lầm nữa.

Trong khoản trước đã nói rằng: Những kẻ nghịch ác phàm phu, lúc lâm chung niệm Phật được vãng sinh, là nhờ có thiện căn phước đức ở nơi kiếp trước, nên mới khiến gặp được người tri thức dạy bảo cho mà biết đường niệm Phật. Những bon ấy là bọn gặp may, trong muôn người không được một hai, chớ phải là ai ai cũng được như vậy đâu!

Trong sách Quần nghi luậncó nói rằng: “Trong đời, những người đến khi chết không niệm Phật được có mười hạng kể ra dưới đây:

1/ Hoặc chẳng gặp người tri thức nên không ai khuyên niệm Phật;

2/ Hoặc nghiệp khổ buộc trong thân thể nên không rảnh mà niệm Phật;

3/ Hoặc trúng gió tắt tiếng, nên không xưng niệm hiệu Phật được;

4/ Hoặc cuồng loạn trong tâm trí nên niệm Phật không được;

5/ Hoặc bị chết chìm chết thiêu nên không kịp niệm Phật;

6/ Hoặc gặp nạn hùm gấu lại không ai nhắc bảo mà niệm Phật;

7/ Hoặc gặp kẻ ác hữu khuyên những sự tà rồi tin theo mà không niệm Phật;

8/ Hoặc ăn no quá độ rồi bị hôn mê mà chết nên không niệm Phật được;

9/ Hoặc bị chết trong trận giặc mà không kịp niệm Phật;

10/ Hoặc té xuống núi cao mà chết, nên không niệm Phật được.

Những sự chết hại người đã nói trên đó, lâu nay ai ai cũng từng tai nghe mắt thấy, chẳng luận là kẻ tăng người tục, kẻ già người trẻ. Nếu bị nghiệp đời trước xảy tới, hay là nghiệp đời nay xảy ra, thì ai gặp phải chịu lấy, chớ không thế gì trốn tránh cho khỏi.

Chúng ta không phải là người đã được “túc mạng thông”, làm sao biết chắc rằng lúc lâm chung có nghiệp hay là không nghiệp?Lại cũng không được “tha tâm thông” và “Thiên nhãn thông”, làm sao biết chắc rằng lúc lâm chung chết tốt hay là chết xấu, đặng ngăn ngừa trước.

Nếu có xảy ra một cách chết như mười hạng người đã kể trên đó, thì dẫu cho các bạn tri thức đứng vây bốn phía mấy trăm mấy ngàn người đi nữa, thì cũng không thể gì cứu kịp rồi phải đi theo nghiệp duyên mà thọ những điều tội khổ. Đến lúc ấy, cần nghe danh hiệu của Phật cũng không được, huống chi là niệm.

Giả như chúng ta chỉ đau bình thường, chớ không có ác duyên gì lạ, thì cũng không khỏi con dao gió cắt đứt trong thân thể, làm cho tứ đại chia lìa, như rùa bị lột vỏ, như cua bị nước sôi. Trong lúc đau đớn và sợ hãi ấy, chúng ta cũng không thể gì niệm Phật được.

Giả như không đau mà chết, vì bị việc đời chưa rảnh, dục niệm còn vương, rồi tham sống sợ chết, rồi loạn tâm thần, gia dĩ của cải chưa chia, việc sau chưa tính, vợ than con khóc, trăm mối ưu sầu thì cũng không thể niệm Phật được.

Giả như trong lúc chưa chết, có vương vấy chút bệnh gì, chịu khổ không được, bực tức rên la, kiếm thuốc tìm thầy, trăm phương cầu khẩn, tưởng xăng nghĩ chạ, tạp niệm luôn luôn, thì không thể gì niệm Phật được.

Giả như trong lúc chưa đau, bị tuổi cao tác lớn, thân thể gầy mòn, chân yếu gối dùn, mắt lòa tai điếc, buồn rầu than thở, khốn đốn trăm phần, rồi ngày kia tháng nọ, chỉ lo sắp đặt những công chuyện ở trên cái thân suy lão ấy không rồi, có đâu mà niệm Phật được.

Giả như trong lúc chưa già, chính là thời kỳ đang trẻ mạnh, bị tình trần chưa hết, việc tục còn đeo, nay tính sự này, mai toan sự nọ, nghĩ quẩn lo quanh, theo đường nghiệp thức, cũng không rảnh rang mà niệm Phật được.

Giả như không vướng việc đời theo phần học đạo, thanh nhàn tự tại, quyết chí tu hành, lại bị những sự hiện tượng trên thế gian có chút gì xét không thấu, buông không rời, nắm không vững, dứt không đứt, thì cũng không thể gì định tâm mà niệm Phật được.

Nên chúng ta hãy xét coi như trong lúc già, lúc bệnh, lúc trẻ mạnh, và lúc thanh nhàn đã nói trên đó, mà có một sự gì vương vấn trong lòng, còn niệm Phật không được thay, huống chi đợi lúc lâm chung và để lo cho hết thế gian rồi sẽ niệm Phật có phải là tính lầm hay không?

Ôi! Sự nghiệp trong thế gian như chiêm bao, như đồ mỵ, không có cái gì là thiệt hiện và cũng không có cái gì là thế được sự sinh tử; dẫu chúng ta có làm chùa to lớn, chứa của cho nhiều, chưa rõ biết được sự sinh tử, đi lại cũng kết thành một cái gốc khổ. Đến lúc nhắm con mắt rồi, chịu nỗi đắng cay, chúng ta mới biết lại chỗ hành vi trong khi bình nhật đều là dưới vạc dầu sôi mà thêm than thêm củi, trên rừng gươm bén thêm mác thêm dao, hễ mất thân người, thì muôn kiếp khó hườn lại được.

Vậy nên Phật Tổ tìm hết cách phương tiện mà dẫn, cạn hết lời trung khúc mà tỏ bày, đều khuyên bảo chúng ta phải sấn tới trong lúc chưa già và chưa bệnh, ném quăng thế sự, chui mài thân tâm, hễ được quang cảnh một ngày, niệm Phật hiệu trong một ngày, hễ được công phu một buổi, tu tịnh nghiệp trong một buổi, chớ có ai bảo đợi hết công việc để đến lâm chung rồi sẽ niệm Phật như thế đâu?

Ngài Tử Tâm Thiền sư có nói rằng: “Trong thế gian có nhiều kẻ của tiền như núi, thê thiếp đầy nhà, ngày xem hoa, đêm thưởng nguyệt, cuộc cờ trường hạ, chén rượu du xuân, cùng cực nỗi phong lưu hào hứng, họ cũng muốn sống lâu hưởng thọ những điều khoái lạc ấy”.

Nhưng cái “số mạng hữu hạn” cứ thôi thúc những sự già và sự yếu mà mình không hay, một mai con quỷ vô thường tới nơi, thì quyết định phải đi chớ không thể gì hẹn hò và chậm trễ trong giây lát được.

Tưởng những sự ấy, ai ai mắt cũng từng thấy, tai cũng từng nghe nào kẻ tuổi xanh nào người sức mạnh, đã chết không biết là bao nhiêu.

Nên cổ nhân nói rằng: “Chớ đợi đến già rồi niệm Phật, mồ hoang biết bao kẻ tuổi còn xanh”.

Vậy thì chúng ta có thể hẹn đến lúc lâm chung rồi sẽ niệm Phật được không.

Nếu chúng ta biết nghĩ rằng: Người ở đời dẫu cho trăm năm cõi thọ, thấm thoát cũng chẳng mấy giây, như lửa trong đá, như chớp giữa trời, thấy đó rồi mất đó chớ không ích gì cả.

Vậy ta phải sấn tới trong lúc chưa già và chưa bệnh mà xa lần thế sự và lo sửa thân tâm. Hễ được quanh cảnh một ngày, ta niệm Phật hiệu một ngày, hễ được công phu một buổi, ta tu tịnh nghiệp một buổi, tha hồ đến lúc lâm chung, chết tốt hay là chết xấu, sự sắp đặt của ta vững vàng, đường quy hướng của ta cũng đã nhất định. Như vậy chẳng phải là an tường tự tại hay sao?

15/Hỏi: Có nhiều người cũng biết pháp môn Tịnh độ là dễ tu mà lại chắc đặng. Nhưng rủi gặp cái duyên cảnh gì trở ngại, thì họ đã bỏ tu, rồi lại nói rằng: “Tịnh độ là do việc thân sau, chớ không bổ ích gì trong hiện thế. Như vậy thì phán đoán làm sao cho họ biết rõ?

Đáp: Ôi! Pháp tu Tịnh độ chẳng những đến khi lâm chung được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sinh và khỏi bị luân hồi sinh tử về thân sau mà thôi, đến khi trong lúc hiện thế này cũng là một môn rất lợi ích cho người nữa.

Bởi vì Phật pháp dạy người, như nói về phần sự tướng, chẳng qua là một việc làm lành đó thôi.

Nếu người tu Tịnh độ, tức là người ấy đã biết hồi tâm hướng thiện, tất nhiên trong lúc ngày bình thường, từ cái tâm suy nghĩ, cái miệng nói năng, cho đến cái thân ra hành động sự gì, cũng chắc là việc hiền lành cả.

Nếu “thân, khẩu và ý”, ba nghiệp ấy đã hiền lành thì tự nhiên chiếm được địa vị “thiện nhân quân tử”, người thế kính yêu, thánh thần ủng hộ, rồi do đó mà phước duyên đầy đủ, thọ mạng lâu dài. Cái hiện trạng xuân sắc trong gia đình lại một ngày một vẻ vang đẹp như gấm, tươi như hoa, trăm phần mỹ mãn.

Như vậy có phải là lợi ích cho lúc sinh tiền đó hay không?

Còn như người nào bị nghiệp duyên ràng buộc và hoàn cảnh đánh đổ, làm cho không chuyên tâm tận lực về sự tu Tịnh độ, nhưng biết giữ chí cho bền và không hề thối chuyển, cái ác duyên cũng từ đó giảm bớt và cái thiện duyên cũng từ đó mà thêm lên.

Nếu ác duyên cứ giảm mãi mà không thôi, chắc có ngày tiêu mất, còn thiện duyên cứ thêm hoài mà không ngớt, cũng chắc có lúc thuần toàn, rồi thành được cái danh vọng người hiền nhân.

Như vậy có phải là lợi ích cho lúc sinh tiền đó hay không?

Rất đỗi những hạng người không biết lễ nghĩa, không sợ hình phạt, giữ thói cang cường, theo đường thế sự, mà nếu biết lấy pháp môn Tịnh độ là chỗ quy tâm tức là biết tự xét mình mà ăn năn những sự lỗi lầm, chỗ hành vi tuy chưa tất hiệp theo đường lễ nghĩa, cũng được gần với lễ nghĩa, tuy chưa tất vượt khỏi hình phạt, cũng được điều hình phạt, rồi lần lần thoát được cái cảnh giới tiểu nhân, về nơi môn đình quân tử.

Như vậy có phải là lợi ích cho lúc sinh tiền đó hay không?

Trong kinh nói rằng: Những người thọ trì danh hiệu của đức Phật A Di Đà, thì lúc hiện thế được mười món lợi ích rất lớn như sau này:

1/ Ngày đêm thường có các bậc Thiên thần ẩn hình mà ủng hộ;

2/ Thường có 25 vị Bồ tát như bậc Ngài Quán Thế Âm và cả thảy các vị Bồ tát khác nữa, hằng theo mà giúp đỡ;

3/ Thường được các đức Phật ngày đêm hộ niệm và đức Phật A Di Đà hằng phóng hào quang mà nhiếp thọ cho nữa;

4/ Tất cả các thứ quỷ dữ, như quỷ Dạ xoa, quỷ La sát, đều không dám hại, những loài rắn độc, rồng độc, cùng thuốc độc, cũng không thể gì làm cho nguy hiểm được;

5/ Nào những nạn lửa, nạn nước và oán thù gươm mác, cũng không hại được;

6/ Những tội nghiệp kiếp trước của mình làm cũng đều tiêu hết, còn các loài sinh vật lâu nay bị mình giết hại đó, cũng được nhờ phần giải thoát, khỏi sự oán báo;

7/ Đêm ngủ chiêm bao thường thấy những sự chân chính, và có khi thấy được tường hảo của Phật Di Đà nữa, chớ không khi nào thấy ác mộng;

8/ Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực thường khỏe mạnh, mà hành động sự gì cũng được phước lợi;

9/ Người đời ai thấy cũng yêu vì, cúng dường và hoan hỷ lễ bái, mà kính trọng cũng như Phật;

10/ Đến lúc lâm chung, trong tâm không sợ hãi mà giữ được chánh niệm lại được thấy Đức Phật A Di Đà và các vị thánh chúng cầm hoa sen vàng, tiếp dẫn về nước Tịnh độ, hưởng thọ những điều khoái lạc vô cùng vô tận.

Coi qua mười điều lợi ích của Phật đã nói trên đó, chúng ta đủ biết sự niệm Phật đã lợi ích cho lúc lâm chung, cũng lợi ích ngay hiện tại.

Như vậy có phải là siêu việt hơn các pháp môn khác hay không?

16/Hỏi:Xưa nay thấy người niệm Phật thì nhiều mà vãng sinh thành Phật thì có ít là sao?

Đáp:Người đời niệm Phật thì nhiều, mà vãng sinh thành Phật lại ít, là vì có ba nguyên nhân sau này:

1/ Miệng tuy niệm Phật, mà trong tâm nghĩ lắm sự ác; vì vậy nên không được vãng sinh.

Nên biết rằng mình là người niệm Phật, thì phải tuân theo những lời Phật dậy, tích đức tu nhân, làm điều chân chất, hiếu dưỡng cha mẹ, trung với nước nhà, vợ chồng kính nhau, giữ lòng công bình chính trực mà lập thân, lấy điều thành tín nhu hòa mà xử thế, từ bi phương tiện, thương xót mọi loài, không nên sát sinh hại vật, mà chẳng nên khinh dễ người hèn.

2/ Miệng tuy niệm Phật, mà trong lòng tưởng xằng nghĩ chạ; vì vậy không được vãng sinh.

Nên biết rằng trong lúc mình niệm Phật, thì phải dẹp bỏ các sự tư tưởng giữ cho sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật phân minh, một lòng an định, thường nghĩ như thân mình ở tại cõi Tịnh độ, mặt mình đối với đức Phật A Di Đà, không dám chút nào tán loạn.

Như vậy mới thiệt là niệm Phật, mà chắc được thành Phật.

3/ Miệng tuy niệm Phật mà trong lòng quyến luyến cõi nhân gian và tham cầu sự phú quí; vì vậy nên không được vãng sinh.

Nên biết rằng sự phước lạc ở các tầng trời là cực điểm, đến khi hết rồi, còn phải đọa thay, huống chi sự phú quí cõi nhân gian là giả tạm mà tham cầu chi cho mệt.Vậy phải nghĩ thân người khó được pháp Phật khó nghe, ngày nay được dự vào hàng nhân luân và được nghe lấy pháp môn Tịnh độ, thì hạnh phúc cho ta biết bao!

Nếu biết cổ động tinh thần cho dõng mãnh, rèn đức trí nguyện cho kiên cố, rồi đem sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” in vào trong tâm trí thề làm sao cho được vãng sinh, được thấy Phật và chứng cho được quả vô sinh pháp nhẫn mới mãn nguyện.

Như vậy mới thiệt là người niệm Phật chắc được thành Phật.

17/ Hỏi:Niệm Phật mà được chuyên nhất vẫn là lợi ích rồi, ai lại không muốn! Nhưng ngặt vì định lực chưa thành niệm tâm không chủ, hoặc bị cảnh duyên xúc tới mà nhẫn nại không rồi, hoặc bị tình tưởng nổi lên mà đè ép không lại, đến nỗi nghĩ sự này tính sự nọ, trong một giây một phút mà ý thức đã đi đến ngàn trùng muôn một chút ân hay là một chút oán gì, thì đến ngày kia tháng nọ, bỏ cũng không quên, dứt cũng không đứt. Như vậy thì làm cách nào trừ cái bệnh ấy cho được?

Đáp: Ôi! Đó là cái thông bệnh của người tu hành từ xưa đến nay không ai tránh khỏi.

Nhưng trong lúc niệm Phật ta để cho nó làm gián đoạn như vậy, thì cái công phu tịnh nghiệp chắc không thể gì thành tựu được.

Vậy nên có ba điều rất đau đớn và rất quan thiết buộc mình phải nghĩ như dưới đây:

1/ Phải nghĩ sự đền ơn;

2/ Phải nghĩ sự quyết chí;

3/ Phải nghĩ sự linh nghiệm.

Nói về sự đền ơn, - nghĩa là ta đã chuyên tu theo môn Tịnh độ, phải nghĩ đền ơn Phật và ơn nước; nhưng sự đó chưa có thể bàn đến.

Nay chỉ nói về ơn cha mẹ nuôi nấng, ơn thầy dậy bảo và ơn thí chủ mà thôi.

Vì có nuôi nấng, nên chúng ta mới nên vóc nên hình, vì có dạy bảo, nên chúng ta mới biết phải biết quấy; vậy thì hai cái ơn ấy có phải là trọng hay không?

Thế mà cha mẹ hay là sư trưởng ta rủi trong khi bình nhật có vương lấy tội ác gì, sau lúc mạng chung, phải bị quả báo thống khổ ở nơi tam đồ, thì chắc cũng ngày đêm trông nhờ vào cái đạo lực tu hành của ta để cứu độ cho thoát khỏi, chớ lẽ nào không?

Nếu ngày nay ta niệm Phật để cho gián đoạn như vậy, chắc là Tịnh nghiệp không thành.

Nếu Tịnh nghiệp đã không thành, thì ta cứu lấy phần ta chưa rồi, có đâu cứu đến cha mẹ và sư trưởng cho được!

Nếu ta đã không cứu được nhau, thì tức là người bất hiếu, vong ân và bội nghĩa rồi.

Kinh có dạy rằng: “Tội bất hiếu phải đọa vào địa ngục”. Vậy tâm niệm Phật gián đoạn đó, có phải là nghiệp địa ngục hay không?

Vả lại phần xuất gia của ta đủ điều sung sướng, không nuôi tằm mà có áo mặc, không cày ruộng mà có cơm ăn, cho đến nỗi nhà cửa không làm mà có ở, giường phản không sắm mà có nằm; trăm ban vạn sự thọ dụng không thiếu món gì, vậy thì cái ơn thí chủ đối với chúng ta có phải là lớn hay không?

Tổ sư xưa nói rằng: “Những của mà người thí chủ cúng cho ông thầy thọ đó, tức là tiền giảm ăn giảm mặc của vợ con người chắt mót đem tới. Nếu làm ông thầy đạo nhân chưa rõ được, thì dẫu cho họ thọ dụng một hột nước hay là một sợi tơ của người, rồi thân sau cũng làm loài trâu bò mà trả nợ, chớ không dễ gì tránh được”.

Thế mà ngày nay ta niệm Phật để cho gián đoạn như vậy, chắc là Tịnh nghiệp không thành.

Nếu Tịnh nghiệp không thành tất phải làm loài mang bừa vác ách để đền công trả nợ cho người.

Vậy tâm niệm Phật gián đoạn ấy có phải cái nghiệp súc sinh không?

Nói về sự quyết chí– Nghĩa là tu theo môn Tịnh độ, thì phải quyết định.

Ta nên nghĩ như vầy: “Ta thản nhiên rồi mà thiền lý chưa tỏ; ta coi kinh rồi mà kinh giáo chưa minh; lôi thôi cho đến ngày nay, còn lo nói thiền, luận giáo, viết sách, làm thơ, tình rẽ hai đàng, niệm chia bốn ngõ. Như vậy sao phải?

Tổ sư có nói rằng: “Nếu con hệ niệm một chút đỉnh, tức là tạo nghiệp thống khổ trong ba đường; nếu sinh tình một mảy may, tức là tạo nghiệp dàm khớp cho muôn kiếp”.

Thế mà chí khôn quyết định, tình niệm nhiều đàng, làm cho xen hở cái công phu tịnh nghiệp, vậy tâm gián đoạn ấy có phải là nghiệp “ba đường” và nghiệp “dàm khớp” đó hay không?

Còn như sự giữ gìn giới luật mà chí không quyết định, thì nhân cái thân và lỗ miệng của mình mà tham cầu lắm sự trái lẽ.

Trong kinh giáo nói: “Thà lấy nước đồng sôi đổ vào miệng, chớ không nên đem cái miệng phá giới mà thọ dụng đồ ăn uống của kẻ đàn na, và thà lấy dây sắt nóng buộc mình chớ chẳng nên đem cái thân phá giới mà thọ dụng đồ y phục của người thí chủ”.

Huống chi giới chẳng tin nghiêm thì tâm càng vọng động, rồi do đó làm hở dứt sự chuyên tu.

Vậy tâm gián đoạn ấy có phải là cái nghiệp đồng sôi sắt nóng đó hay không?

Nhưng chẳng phải vậy mà thôi; lại còn sự thương sự ghét, muốn đoạn trừ mà chí không quyết định thì hoặc nhân cái danh lợi giả dối khám phá không ra, rồi phân biệt cái danh lợi này thuộc về ta mà sinh lòng ham muốn, cái danh lợi kia thuộc về người mà sinh lòng ghen ghét.

Cố nhân có nói rằng: “Ham mồi danh lợi thì đọa vào loài ngạ quỷ; giữ thói ghen ghét sân hận thì đọa vào chốn địa ngục hỏa khanh”.

Thế mà ngày nay, nhân sự thương ghét làm cho gián đoạn công phu Tịnh nghiệp.

Vậy tâm niệm Phật gián đoạn ấy, có phải là cái nghiệp “ngạ quỷ và hỏa khanh” đó hay không?

Nói về sự linh nghiệm– nghĩa là ta chuyên tu theo môn Tịnh độ, thì ta phải cầu sự linh nghiệm rồi mới biết.

Coi như thưở xưa Ngài Lô Sơn Viễn tiền sư trong mươi năm mà ba lần thấy Phật rờ đầu. Ngài Hoài Cảm pháp sư kể khi niệm Phật thì được thấy Phật, còn Ngài Thiêu Khương pháp sư hễ sướng một tiếng Phật, thì chúng đều thấy một vị Phật ở trong miệng đi ra, Ngài sướng luôn mười tiếng, thì cũng đều thấy đủ mười vị Phật ở trong miệng đi ra liên tiếp như vậy.

Xét đó thì đủ biết những sự linh nghiệm đã hiển hiện ở trên mặt kinh sách, không biết muôn ngàn nào mà kể xiết. Vậy chúng ta niệm Phật chuyên chú một lòng, không điều tạp niệm, thì chắc được thấy Phật, chớ không khó gì.

Nếu tâm ta còn gián đoạn, thì quyết không thấy Phật. Nếu đã không thấy Phật, thì ta không có duyên với Phật, nếu ta không có duyên với Phật, không sinh được về Tịnh độ và nếu không sinh về Tịnh độ thì phải chịu sinh tử luân hồi.

Chúng ta phải biết rằng: ba điều rất đau đớn và rất quan thiết buộc phải tự nghĩ như đã kể trên đó, là khiến cho tâm không rời Phật, Phật chẳng rời tâm, đạo cảm ứng giao thông, tức là hiện tiền thấy Phật.

Nếu đã thấy được Phật ở cõi Cực Lạc, tức là thấy được chư Phật ở trong mười phương. Nếu đã thấy được chư Phật trong mười phương tức là thấy được Phật “Thiên chân tự tánh” của ta rồi, tức là được diệu dụng thần thông vô lượng vô biên.

Đến khi ấy con ma nghiệp thức trốn chẳng thấy hình; ông Phật bổn lai nhìn đã rõ mặt, thì còn cái gì là cảnh, là duyên, là tình, là tưởng, là ân, là oán, là nhớ, là quên, mà làm cho ta gián đoạn được nữa.

18/Hỏi:Những môn nhập đạo cũng nhiều, duy có Thiền tông và Tịnh độ tông, tuy khác đường đồng về một ngõ.

Nhưng tham thiền lấy sự tỏ ngộ làm kỳ hạn; hễ công phu thấu đáo thì trong lúc hiện sinh đã tỏ ngộ được. Còn tu Tịnh độ, lấy sự vãng sinh làm nhất định, mà dầu có niệm Phật cho tinh chuyên đi nữa, cũng đợi đến lúc lâm chung mới được vãng sinh.

Vậy hai pháp ấy cũng có trước có sau, có mau, có chậm như thế là sao?

Vả lại tu môn Tịnh độ quán sát những câu: “Người niệm Phật là ai” và câu “thế nào gọi là bản tính Di Đà v.v…”, đó là nói về công phu tham cứu chớ không phải kẻ bậc hạ căn làm được.

Vậy cứ giữ niệm Phật hiệu, mà muốn cho lúc sinh tiền được ngộ đạo và khi tử hậu được vãng sinh, nên làm như thế nào?

Đáp:Tham thiền với niệm Phật, đều là phương tiện của Phật Tổ dắt người nhập đạo, chớ nguyện lai không phải là hai pháp, chỉ tùy theo căn khí của người lấy môn nào cũng được.

Chí như sự trước với sự sau và sự mau với sự chậm, đó là tùy theo căn lượng của người, chớ hai pháp ấy có hơn thua và khác nhau như vậy đâu!

Coi như tham thiền cũng có kẻ do trong một cái bè, một tiếng hét, một lời nói, hay là một câu chuyện mà ngộ đạo được liền; lại cũng có người suốt một đời không ngộ, đến nỗi chờ tới hai ba đời mới ngộ được.

Cổ nhân có nói rằng: “Giả như tham cứu chưa suốt, hoặc hỏi chưa thành, dẫu nghe lọt vào tai, thành hạt giống đạo hoài hoài; đời sau có sinh ra, chắc cũng một nghe ngàn tỏ, được phép “Tổng trì”.

Xem như vậy, biết những người tham thiền cũng không nhất định là trong lúc hiện thế đều tỏ ngộ được hết.

Còn như niệm Phật vãng sinh, tuy là nói về việc thân sau, song những người trong lúc hiện sinh được tỏ ngộ còn ghi chép trong chuyện sử cũng nhiều.

Nên bài “Đại Thế Chí niệm Phật” trong kinh Lăng Nghiêm, có nói rằng: “Nhớ Phật niệm Phật, thì lúc hiện tiền hay là qua đời sau, cũng chắc nhất định thấy Phật”.

Xem như vậy biết những người niệm Phật có phải là trong lúc tại thế không được tỏ ngộ và không được thấy Phật đâu!

Chúng ta nên biết rằng hiện nay đây không luận có tỏ ngộ, hay không tỏ ngộ, chủ yếu ngày đêm sáu thời, nhất tâm niệm Phật, đừng có một khắc nào quên, nếu có quên, phải nhớ lại liền, rồi phát lòng đại nguyện, ra sức dõng mãnh, quyết định vãng sinh.

Nếu đã được vãng sinh, thì tất nhiên tỏ ngộ.

Nếu Ngài Vĩnh Minh Thiền sư nói rằng: “Thấy được Phật Di Đà, lo gì không tỏ ngộ!”

19/Hỏi:Mỗi bữa niệm danh hiệu Phật lại kiêm đọc các kinh đại thừa nữa, pháp ấy vẫn là trăm phần chính đáng rồi. Nhưng ngặt vì những người ở trong cuộc trần lao, khi tuổi lớn mới biết sự học đạo, gia dĩ việc nhà rộn rực, lúc rảnh không được bao nhiêu, nếu trong một ngày mà có coi đến kinh điển, thì cũng như tính cát ở dưới biển đã vô ích mà lòng niệm Phật không được tinh chuyên. Còn cứ giữ một niệm Phật luôn luôn, thì cũng như gục mặt vào tường bị ngăn ngại, mà chỗ thấy biết không được thông suốt. Vậy ngày nay phải niệm tụng kiêm tu, hay là chỉ chuyên trì danh hiệu cũng được?

Đáp:Những người tu tịnh nghiệp, tụng đọc các kinh đại thừa, là để tỏ rõ cái tông chỉ của Phật, mở mang lý tánh và giữ lòng chánh tín cho bền, chớ chấp trệ theo câu văn nghĩa chữ làm chi, đến nỗi nhọc công tính cát vô ích như vậy.

Nay chúng ta bất tất lựa chọn cứ tùy theo chỗ tiện lợi của mình mà làm. Nếu ai muốn tụng kinh, thì nhân lúc niệm Phật rồi, tụng đọc nhiều ít đặng hồi hướng về Tây phương cũng tốt.

Còn như ai muốn chuyên trì danh hiệu mà thôi, thì cứ lo nhất tâm niệm Phật cho thường cũng được, chủ yếu làm sao chánh niệm của ta được lên đến địa vị thuần nhất đừng cho những điều tà tư tạo tưởng xen lộn vào, có ngày trông thấy được hiệu quả.

20/Hỏi:“Tiên đức xưa dạy người niệm Phật phải làm cho niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, đến khi cái “niệm” cùng cái “không niệm” đánh thành một khối mới thiệt là chỗ công phu cứu cánh”

Thế mà những kẻ sơ học ngày nay, đương lúc vô sự thì hoặc là chuyên niệm không, còn gặp khi rộn việc thì đã quên đi hồi nào không biết. Vậy tức là lúc niệm mà có cái “chẳng niệm” kia đã chia làm hai rồi, làm sao đánh thành một khối cho được.

Nếu nay muốn đương hồi vô sự mà cái tâm “tâm sai biệt” đừng mê, gặp lúc rộn ràng mà cái “niệm giữ gìn” còn vững, như vậy làm cách nào cho được?

Đáp:Trong pháp niệm Phật có hàm đủ: 1/ Sự niệm, 2/ Lý niệm đều kể như dưới này 

1.“Sự niệm”, là nói cứ nhất tâm niệm suốt, làm cho chữ nào chữ nấy được phân minh, câu trước câu sau được tiếp tục. Hễ phân minh, thì tâm không hôn mê; còn tiếp tục thì tâm không tán loạn. Nếu ta đã không hôn mê và tâm không tán loạn thì tự nhiên lâu lâu rồi thành tựu được pháp “Niệm Phật tam muội”.

2.“Lý niệm”, là một mình rõ thấu cái tâm “năng niệm” và ông Phật “Sở niệm” trong lúc hiện tiền đó, là do nhân duyên diệp thành, chớ nguyện chẳng phải có, đương thể vốn thiệt tánh không. Ấy gọi là “niệm mà không niệm” song tuy tánh là không có cái tâm “năng niệm” và ông Phật “sở niệm” hiển hiện ở trước rõ ràng, ấy gọi là “không niệm mà niệm” “niệm mà không niệm”.

Nhưng nên biết rằng niệm mà không niệm, tức là “không quán”; không niệm mà niệm, tức là “giả quán”; không với giả chẳng phải là hai, pháp thân hiển hiện, tức là “Trung đạo quán”.

Nếu người niệm Phật mà hiệp được với quán hành ấy, thì biết Ta bà với Tịnh độ cũng ở một chỗ, Di Đà với ta không phải là hai người. Hễ niệm Phật như thế, thì chắc sinh về thượng phẩm, nên tiên đức nói răng: “Sinh thì quyết định sinh, mà đi thì thiệt không đi đâu cả”, là vậy đó.

Bằng như chỗ lý tính chưa rõ, mà cứ chấp trước về một bên có, thì đâu biết tới cái đạo lý “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm” kia được. Nay chúng ta chẳng luận là sự hay lý chỉ cứ đem một câu “Phật hiệu” nhất tâm niệm hoài, thì tốt hơn.

Nên ông Bạch Hương Sơn có nói rằng: “Đi cũng A Di Đà, ngồi cũng A Di Đà dẫu rộn như tên bắn, chẳng rời A Di Đà”.

Nếu niệm Phật được như vậy, thì lâu ngày thuần thục, chánh định hiện thành, rồi tự nhiên trong thì vô sự, tâm linh cũng chẳng đến nỗi hôn mê, mà dẫu lúc rộn ràng, chánh niệm cũng không đến nỗi quên mất.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 3891)
Mặc dù không thể nói nhiều nhưng tôi muốn nói ít lời này. Tulku Urgyen Rinpoche và tôi cùng quê quán ở miền Đông Tây Tạng, nhưng chúng tôi vẫn có vẻ rất xa cách nhau. Vào thời ấy chúng tôi không có phương tiện để tới với kỹ thuật tân tiến. Bởi không có máy bay, không xe lửa, không xe hơi nên mọi người phải đi bộ hay đi ngựa, vì thế một khoảng cách mà ngày nay chúng ta thấy dễ dàng vượt qua bằng phương tiện vận chuyển hiện đại thì vào thời đó nó có vẻ rất dài. Mặc dù dĩ nhiên là chúng tôi có nghe nói về nhau, nhưng mãi tới khi lần đầu tiên tôi tới Thung lũng Kathmandu thì chúng tôi mới bắt đầu có một sự nối kết.
30/10/2010(Xem: 4014)
Trước tiên chúng ta phải học “giới học” để thực hành. Nếu không biết giới học, chúng ta không thể nào tịnh hóa những hành vi cư xử của mình. Rồi chúng ta phải học thêm chỉ (samatha) để kiểm soát và tập trung tâm ý. Nếu không biết về thiền chỉ, chúng ta sẽ trau dồi định như thế nào? Nếu không hành định, làm sao chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình? Sau đó, chúng ta phải học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ. Nếu không biết về tuệ học, chúng ta trau dồi trí tuệ ra sao?
29/10/2010(Xem: 4698)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau. Chỉ có những người tu tập thiền định, đi sâu vào nội tâm, chứng được các tầng thiền, hoặc có thiên nhãn thông, túc mạng thông thì mới thấy được kiếp sống quá khứ và vị lai.
26/10/2010(Xem: 4052)
Đề mục kinh này vô cùng rõ ràng, nội dung cũng rất đơn giản, trong sáng, thiết yếu. Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh. Trong pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đều biết đến đạo lý “tâm tịnh cõi nước tịnh”.Do đây biết rằng: đối với việc tu học Tịnh Độ tông, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu. Người phiên dịch bộ kinh này là ngài Thi Hộ, Ngài là người ngoại quốc đến Trung Quốc hoằng pháp vào thời Nam Bắc Triều.
23/10/2010(Xem: 9528)
Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I)
22/10/2010(Xem: 4201)
Mỗi một trong vô lượng cuộc đời của chúng ta từ vô thuỷ, chúng ta phải có những bậc cha mẹ. Vào lúc này hay lúc khác, mỗi một chúng sinh duy nhất hẳn đã từng là mẹ hay cha của ta. Khi chúng ta nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh này - những người từng là cha mẹ của chúng ta - đã phải lang thang quá lâu và không người cứu giúp trong vòng luân hồi sinh tử giống như những người mù lạc đường, thì chúng ta không thể không cảm thấy một lòng bi mẫn lớn lao đối với họ. Tuy nhiên, tự bản thân lòng bi mẫn thì không đủ; họ cần sự giúp đỡ thực sự.
22/10/2010(Xem: 4800)
Một Giáo lý của Jetsunma Ahkon Lhamo Trong Phật Giáo Kim Cương thừa – là hình thức Phật Giáo được bảo tồn ở Tây Tạng và Mông Cổ và là một tông phái được tu hành ở chùa của tôi – một trong những giáo lý căn bản làsự hiểu biết và thực hành lòng bi mẫn. Cá nhân tôi nhận ra rằng một triết học tôn giáo được đặt nền trên lòng bi mẫn vô ngã mang lại cho ta một sự hài lòng sâu xa và tôi tin rằng nó đánh trúng tình cảm của nhiều người Mỹ.
21/10/2010(Xem: 4240)
Ở Solu Kumbu mọi người lớn tuổi đều quay Bánh Xe Cầu nguyện mỗi ngày. Khi họ ở nhà vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, họ cầm một mala (chuỗi hột) trong bàn tay trái, một Bánh Xe Cầu nguyện trong bàn tay phải, và trì tụng thần chú OM MANI PADME HUNG. Và khi họ đi vòng quanh, họ liên tục quay Bánh Xe Cầu nguyện và tụng OM MANI PADME HUNG.
19/10/2010(Xem: 4594)
Một lần, khi Đức Phật nhuốm bệnh ở Beluvà, trước sự lo âu buồn khổ của tôn giả Ananda (Trường III, trang 101), và một lần khác, trước tin tôn giả Sàriputta (Xá lợi Phất) đã mệnh chung và trước sự lo âu của tôn giả Ananda (A Nan) (Tương V, 170), Đức Phật đã tuyên bố lời dạy này, vừa là lời chỉ dạy tóm thâu mọi phương pháp tu hành của ngài được cô đọng lại, và cũng là một lời trăn trối của một bậc Đạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn nhủ và khích lệ đệ tử của mình những gì các đệ tử cần phải tu tập, sau khi bậc Đạo sư viên tịch...
16/10/2010(Xem: 4444)
Bạn đã được giới thiệu về “phương châm tu tập”, “ý nghĩa của Sám hối”, và “tâm Bồ đề”. Đó chính là những hành trang cần thiết, quan trọng để xây dựng những nhận thức căn bản và thực tiễn cho cuộc sống hạnh phúc cũng như cho cuộc hành trình tâm linh của bạn. Khi đã có đầy đủ những hành trang cần thiết cho tư duy và hành động rồi, bây giờ là lúc bạn có thể đi vào thực tập những pháp môn căn bản không phải để có ý niệm về hạnh phúc hay để lí luận về hạnh phúc, mà để “sống hạnh phúc” ngay bây giờ và ở đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567