Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Thích Liên Như (Shaku Rennyo 1415-1499)

21/07/201207:45(Xem: 9728)
04. Thích Liên Như (Shaku Rennyo 1415-1499)

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
có so sánh với tiếng Nhật

III. Những bản văn dịch (từ tiếng Nhật sang tiếng Đức)

4. Thích Liên Như (Shaku Rennyo 1415-1499)

Phần kế tiếp chỉ có nơi sách tiếng Nhựt và không có nơi sách tiếng Đức của Christian Steineck

4.1 Phần kế tiếp

Thời Hậu Điểu Vũ Viện trị vì, Pháp Nhiên Thượng Nhơn đã làm cho Tông Tha Lực Bổn Nguyện Niệm Phật lên cao trào. Khi ấy các Tăng lữ tại chùa Hưng Phước trình tấu khiêu khích lên bên trên. Trong số đệ tử ấy có những người như Vượn Tịch Tử Tế (Roozeke Shisai) cũng bị ghép tội xử phạt, dầu cho chẳng phải là sự thật nghe qua.

Một là Pháp Nhiên Thượng Nhơn (Hoonen Shoonin) cùng với 7 người đệ tử bị hình phạt lưu đày. Còn 4 người đệ tử khác bị tội tử hình. Pháp Nhiên Thượng Nhơn bị tội lưu đày ra Thổ Tá Quốc Phan Đa (Tosanokuni Hata). Tội ấy tên là: Đằng Tĩnh Nguyên Nhan Nam vân vân (Bujii Motohiko Otoko Unmen). Lúc ấy Ngài 76 tuổi. Ngài Thân Loan thì bị đày ra Việt Hậu Quốc (Echigo no Kuni) với tội danh là Đằng Tĩnh Thiện Tín vân vân, lúc ấy Ngài 35 tuổi.

Tịnh Văn Phòng (Zoomonboo) đày đi Bị Hậu Quốc. Trừng Tây Thiền Quang Phòng (Choosai Zenkoo Boo) đày đi Bá Kỵ Quốc. Hảo Giác Phòng (Kokakuboo) đày đi Ý Đậu Quốc. Hành Không Pháp Bổn Phòng (Gyookuu Hoobonboo) đày đi Tả Độ Quốc.

Hạnh Tây Thành Giác Phòng (Koosai Zookaku boo) và Thiện Huệ Phòng (Zeneboo) cùng bị quyết định đày đi xa, Thiện Đề Đại Tăng Chánh của Vô Động Tự được miễn tội lưu đày. Tất cả những người bị đày đi xa như bên trên là 8 người.

Tử hình gồm những vị như sau:

Người thứ nhất là Tây Ý Thiện Trác Phòng (Sai I Zenshakhuboo)

Người thứ nhì là Tánh Nguyện Phòng (Shooganboo)

Người thứ ba là Trụ Liên Phòng (Yuurenboo)

Người thứ tư là An Lạc Phòng (Aurakuboo)

Hai vị Pháp Ấn Tôn Trưởng bị sa thải.

Thân Loan phải cải đổi Tăng bào và cho dùng tên thế tục. Nghĩa là Tăng chẳng ra Tăng mà Tục chẳng phải Tục. Ở giữa đó còn lót chữ ngốc làm họ nữa. Qua tấu văn được trình nghe, sau được nộp bản văn nầy nơi lưu giữ ở ngoại sảnh. Sau khi bị đày, buộc phải dùng tên là Ngu Ngốc Thân Loan (Gutoku Shinran)

Thánh Giáo phía bên trên được viết khi bị lưu đày, đã trở thành việc lớn của Thánh Giáo. Đối với kẻ không có duyên lành thì phải trái cũng không. Điều nầy chẳng thể được chấp nhận.

Thích Liên Như (Hoa Giáp)

(Dịch xong những phần trên vào ngày 22 tháng 4 năm 2011 tại chùa Phật Ân, Mineapolis, Hoa Kỳ)

Thích Như Điển

4.2 Lời cuối

bất cứ tín tâm của ai cũng giống nhau

Như bên trên đã ghi từ chương thứ 11 đến chương thứ 18 là những chương có thể nói là sự phát sanh bằng cách hiểu khác về tín tâm ấy.

Thân Loan Thánh Nhơn khi còn sanh tiền, Ngài đã nói những việc như sau, lúc Thầy của Ngài là ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân còn tại thế. Tuy có nhiều người bạn niệm Phật, nhưng những người niệm Phật ấy chẳng giống tín tâm của Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân. Do vậy mà Ngài Thân Loan Thánh Nhơn và giữa những người đồng tu thưở ấy đã xảy ra việc pháp luận như vậy.

Pháp luận ấy là: “Tôi, Thân Loan (Thiện Tín Phòng) cũng có tín tâm và với tín tâm của Pháp Nhiên Thượng Nhơn là một chứ chẳng phải khác, tuyệt nhiên không có khác gì cả”. Điều nầy Ngài Thân Loan đã nói và những vị đồng tu như Thế Quan Phòng và Niệm Phật Phòng và những vị nầy đã bảo rằng: Ngài suy nghĩ như vậy là sai rồi. Với tín tâm của Ngài Pháp Nhiên là Thầy của chúng ta và tín tâm niệm Phật chưa thành thục của Ngài hoàn toàn chẳng giống nhau”.

Thân Loan bảo rằng: “Nếu Thầy tôi là Pháp Nhiên Thượng Nhơn và sự học vấn của tâm cũng như trí tuệ giống nhau, thì với việc ấy, có thể nghĩ đến được chăng? Thầy và tôi, không thể so sánh hết tất cả mọi phương diện, nhưng chỉ một việc đề cập đến là vấn đề tín tâm mà Đức Di Đà Như Lai đã sắc phong cho. Niềm tin giữa Thầy và tôi không có sự khác biệt nhau, chỉ là một mà thôi”.

Tuy vậy nhưng những người bạn đồng tu hoàn toàn chẳng hiểu cho. Nên bảo rằng: “Đó chẳng phải là việc ngu ngơ hay sao? Vì sao mà có thể nói như vậy được? “Đó là câu hỏi thật nghiêm khắc được đặt ra cho ngài Thân Loan.

Giữ nguyên như vậy không có gì thay đổi. Đối trước Pháp Nhiên thì bên nào đúng hơn, mà Thượng Nhơn cũng chẳng quyết định khác hơn được. Việc nầy đã được Ngài giải thích về Pháp Nhiên Thượng Nhơn như sau:

Cái ta” nầy cũng như niềm tin của Nguyên Không là tín tâm được sắc phong từ Đức Di Đà Như Lai. Tín tâm của Thiện Tín Phòng cũng được đức Di Đà Như Lai sắc phong. Đồng thời tín tâm kia hoàn toàn giống nhau; chẳng có gì khác cả. Nếu có người mang tín tâm khác với tôi, thì việc vãng sanh Tịnh Độ của tôi chắc rằng không được sanh sao?

Nếu suy nghĩ về vấn đề nầy thì ngay bây giờ cũng có người một lòng niệm Phật thì tôi, tín tâm của Thân Loan nầy cũng chẳng khác với tín tâm của người kia, mà là sự đồng nhất. Để hướng dẫn, đã được nói như vậy.

Vậy thì như việc đã tường thuật bên trên, ngay cả những người già cả cũng đã lặp đi lặp lại, có thể chẳng có giá trị gì, nhưng đã được viết lại như vậy. Cuộc sống của tôi cũng sẽ sớm khô cằn như cỏ, trên đó có đọng những giọt sương, mạng người chẳng có gì đáng nói. Đời sống có giới hạn. Bây giờ lắng nghe những sự nghi ngờ của những người đang đi trên đường, đều cùng tín tâm giống nhau. Đây là điều Thân Loan Thánh Nhơn trực tiếp dạy cho và từ đó có thể nói về tín tâm của Tịnh Độ Chân Tông.

Tuy nhiên nếu sau khi tôi chết cũng có người dị đoan và không phải là không có nghi vấn, do vậy đã ghi lại những điều nầy. Nếu tôi có nói thiếu sót đối với những người chủ trương dị đoan hay dị thuyết như tôi đã tường thuật phía trước, thì bây giờ đối với Thân Loan Thánh Nhơn hãy tìm đọc những lời nói và kinh điển cũng như những thơ từ được dịch viết và hãy đừng bị mê hoặc về điều ấy.

Phật Pháp thật là khó, nếu không học cho đứng đắn thì chẳng phải hiểu ngược lại sao? Như vậy thì đối với những lời dạy của Tịnh Độ, trong ấy được gọi là kinh điển của Thánh Giáo ấy cũng trở thành cái chân, cái giả và phương tiện vậy. Như thế thì phương tiện hãy bỏ đi, hãy lấy điều chân thật. Cái giả sẽ lựa ra và cái chân thật hãy dùng đến. Đây chính là việc thực hành bổn ý của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn vậy. Dụng tâm một cách đầy đủ và hãy học những kinh điển cũng như những sách vở giải nghĩa và nên làm cho những lời dạy về phương tiện và những lời dạy chân thật đừng lẫn lộn với nhau.

Bởi vì đây chính là điều đáng lo ngại, nên viết ra một ít lời nói quan trọng vào nơi quyển sách nầy sẽ thấm nhuần được điều ấy.

Từ lời nói thường nhật của Thân Loan Thánh Nhân đã được nói ra rằng: “Đức Di Đà Như Lai từ xa xưa hằng năm kiếp về trước là thời gian đã thành tựu được bổn nguyện của Di Đà Như Lai về việc cứu độ con người. Đối với lời thệ nguyện ấy cuối cùng với tôi, một mình Thân Loan nầy lưu tâm. Với tôi đối với tội lỗi của mọi người, tuy tội đầy mình; nhưng với tội nặng nầy cũng như nhiều phiền não như tôi mà nghĩ rằng cứu được thì đó chính là sự tôn kính bổn nguyện của Đức A Di Đà Như Lai, chứ chẳng phải là cảm được cái sáng sủa ấy”.

Nếu suy nghĩ về vấn đề nầy thì đối với bậc đại hành giả về Tịnh Độ của Trung Quốc, Ngài Thiện Đạo Đại Sư đã nói rằng “với tôi, con người của thế gian, hiện tại với nhiều tội ác chồng chất, vấn đề sanh tử bị mê hoặc và cũng đã mê muội từ xa xưa nơi thế giới của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tu la, loài người và chư thiên. Chỉ đắm trong sáu đường, chẳng tỏ ngộ và từ nơi sự mê mờ ấy chẳng thể rời khỏi được một bước. Thân nầy nên rõ”. Với lời nói như thế quả thật chẳng sai chút nào.

Suy nghĩ từ việc nầy thì những lời dạy của Ngài Thân Loan là tự thấy cái tội của chính mình sâu dày dưới con mắt mọi người. Trong khi đó chúng ta sống với nhiều tội lỗi. Thế nhưng không bao giờ tự biết những tội lỗi sâu dày ấy. Với ân đức của đức A Di Đà Như Lai thật cao vời, nguyện cứu vớt những tội lỗi sâu dày của chính ta, cả sự cung kính tôn trọng cũng chẳng thể rõ biết hết được. Thế giới của tự ngã, thế giới của dục vọng, thế giới của khổ đau… nơi chúng ta mê hoặc đã được Ngài chỉ rõ ràng.

Đồng thời với ân đức đáng tôn kính của đức A Di Đà Như Lai, ta cũng chẳng để ý đến ân ấy. Với bản thân mình, chúng ta chỉ biết sống với sự phê phán đúng, sai; người nầy xấu, kẻ kia tốt, chỉ lo cho chuyện của người khác.

Khi nhìn hình tướng của chúng ta như vậy, ngài Thân Loan Thánh Nhơn đã nói rằng:

“Với tôi vấn đề thiện ác hầu như chẳng để ý đến, nghĩa là nếu chúng ta nhận thức sai về thiện ác, rồi chỉ phán đoán đồng lõa, thì hiểu sai điều mà tôi đã ngộ được sự chân thật nơi đức Phật. Như vậy thì ta có thể biết được việc thiện ác chăng? Thế nhưng với cái ta giới hạn, rỗng tuếch, trống không lại mang đầy cả một thân phiền não, đồng thời chúng ta lại đang sống trong thế giới vô thường và đầy dãy khổ đau như thế giới nầy. Như vậy với cái ta nầy, tại sao có thể suy nghĩ về việc thiện ác ấy? Nếu suy nghĩ thật kỹ thì con người khi nghĩ về thế giới nầy, những hành vi hoàn toàn là hư ngụy; chẳng có tính cách triệt để; chỉ là việc nửa vời, hầu như chẳng có cái gì là thanh tịnh và chân thật cả. Duy chỉ tự rõ biết nơi đức A Di Đà Như Lai là một đạo lý chân thật. Với đạo lý ấy, chúng ta sống hướng lên bên trên, phải là như vậy”.

Sự thật thì theo như lời dạy nầy nếu khi ta và người khác mở miệng ra, nói những lời nhẹ nhàng và nói những lời hư nguỵ, trong những lời như vậy chỉ có một lời tán thán. Đó là “nếu ở cửa miệng ấy niệm Nam Mô A Di Đà Phật và ai ai cũng thế khi hỏi đáp với nhau qua hình thức tín tâm, nên mang tâm niệm Phật như thế nào để khi người ta nói, lời nói của người kia được tôn trọng, chẳng phải là để tranh cãi với nhau. Rồi chẳng phải lời nói của Ngài Thân Loan thì chúng ta lại gán ghép cho Ngài Thân Loan nói. Đối với người đối diện, không thật tình thì đó là điều đáng buồn”.

Những việc như thế ấy, chẳng phải là sự suy nghĩ và lời nói của tôi nhằm hơn thua, mà đó chính là những lời nói được nói ra bởi Ngài Thân Loan Thánh Nhơn. Với tôi, sức học yếu kém, chẳng hiểu rõ hết được ý nghĩa đứng đắn của kinh điển và những thơ văn giải thích; nên đối với sự dạy dỗ sâu xa cũng như cạn cợt đã phân biệt rõ ràng. Bởi vì tôi rất là tối tăm đối với Phật Pháp. Thật ra đây là chuyện đáng buồn, có nhiều chỗ biến dạng.

Tuy vậy bây giờ chỉ còn lại một phần trăm về lời dạy quan trọng của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn, tôi nhớ và viết lại chỉ một phần nào mà thôi.

Hạnh phúc là tôi đã gặp được lời dạy của A Di Đà Như Lai, vừa nhận được ân huệ qua nhân duyên niệm Phật, nhưng nếu đức A Di Đà Như Lai qua lời thệ nguyện cứu độ con người mà chẳng được không sanh về cảnh Tịnh Độ, mà chỉ là biên địa Tịnh Độ, chỉ là phương tiện hóa độ (thế giới giả), khi sanh về đó, quả là điều đáng buồn.

Hoàn toàn giống với lời dạy ấy chúng ta hãy tin vào lời dạy của đức A Di Đà Như lai. Vừa niệm Phật, rồi tin theo điều khác xin đừng lý giải theo sự hiểu biết sai quấy. Cho nên trong khi vừa cầm bút, vừa chảy nước mắt, vừa viết nên những dòng chữ nầy. Quyển sách nầy là quyển sách phải than lên sự sầu bi về tín tâm sai khác, gọi là “Thán Dị Sao”. Quyết rằng khi cho những người khác đọc qua, chẳng phải là điều vô lý.

4.3 Lời phụ:

Thời Hậu Điểu Vũ (Goto Bain – 1180-1239) Pháp Nhiên Thượng Nhân đã dùng tha lực để tạo dựng nên tiếng niệm Phật, nhưng lúc ấy tại chùa Hưng Phước, các vị Tăng nhìn việc nầy với ác ý; nên đã trình tấu lên bên trên nghĩa là: cáo buộc trong những môn đệ của Pháp Nhiên Thượng Nhân có những hành vi chẳng phải đạo. Rồi những người thọ nhận tội chẳng thật ấy lần lượt như sau:

Một là Pháp Nhiên Thượng Nhân cùng với 7 người khác bị tội lưu đày. Lại có 4 người bị tội tử hình. Ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân đày ra Thổ Tá Quốc (huyện Cao Trí) thuộc Phiên Đa. Với tội danh tên là Đằng Tỉnh Nguyên Nhan. Lúc ấy Ngài 76 tuổi.

Ngày Thân Loan thì đày đi Việt Hậu (Huyện Nigata) với tên tội là Đằng Tỉnh Thiện Tín. Lúc ấy Ngài 35 tuổi. Ngoài ra còn có những vị như sau: Tịnh Văn Phòng (bị đày ở Bổ Hậu Quốc, thuộc miền Đông của Hiroshima). Trừng Tây Thiện Quan Phòng thuộc Bá Kỵ Quốc (phía tây huyện Điểu Thủ.) Ảo Giác Phòng đày đi Y Đậu Quốc (miền Đông huyện Suiyuoka); Hành Không Pháp Bổn Phòng đày đi Tá Độ Quốc (thuộc đông bắc đảo huyện Nigata). Cả hai vị Hạnh Tây Thành Giác Phòng và Thiện Huệ Phòng quyết định theo tội danh bị đày đi xa. Còn Đại Tăng Chánh Thiện Đề chùa Vô Động (Đây là Thầy xuống tóc của Ngài Thân Loan Thánh Nhân và Hòa Thượng Từ Trấn Từ Viên) là 2 vị được miễn tội bị lưu đày.

Bên trên là tám vị bị đày đi xa và tử hình gồm những vị như sau:

Người thứ nhất là Tây Ý Thiện Trác Phòng, người thứ hai là Tánh Nguyện Phòng, người thứ ba là Trụ Liên Phòng, người thứ tư là An Lạc Phòng.

Đây là việc suy nghĩ của hai vị pháp sư tôn trưởng. Ngài Thân Loan khi bị đày ở Việt Hậu, hình thức Tăng, phải bị cải đổi, phải dùng tên đời cũng chẳng phải là Tăng mà cũng chẳng phải là tục. Đồng thời ghép thêm chữ Ngốc. Như thế mới được yên thân. Với tấu trạng ấy ngày nay vẫn còn lưu trữ ở Ngoại Ký Sanh (khởi thảo những sắc chỉ và ghi lại những bài văn đã tấu) Nơi Chấp hành Ngoại Ký ở nơi Việt Hậu, chốn lưu đày là nơi mà Ngu Ngốc Thân Loan đã viết ra quyển sách nầy.

Áo Thơ.

Một quyển bên trên, chúng ta đã sống với lời dạy của Đức A Di Đà Như Lai. Đây là một quyển sách tài liệu rất quí giá. Ở đời quá khứ nếu chẳng có nhân duyên với Phật Pháp thì không nên cho xem sách nầy.

Thích Liên Như (Hoa Giáp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 5520)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 6482)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 6053)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 10403)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 5044)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3951)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 7077)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 7850)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 13874)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]