Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Tu học thế nào mới có thể phóng hạ được phiền não?

02/01/201205:43(Xem: 13419)
09. Tu học thế nào mới có thể phóng hạ được phiền não?

PHẬT GIÁO LÀ GÌ

Nguyên tác: HT Thích Tịnh Không
Việt dịch: Thích Tâm An

9. TU HỌC THẾ NÀO MỚI CÓ THỂ PHÓNG HẠ ĐƯỢC PHIỀN NÃO?

    Đây là việc mà người sơ cơ học Phật rất khó làm. Vì sao chúng ta không thể phóng hạ và buông xả được phiền não? Vì không có nhận thức chính xác, không hiểu rõ về chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Nếu chúng ta liễu giải triệt để được thìtự nhiên chúng ta sẽ phóng hạ được, cho nên Phật Thích Ca cả cuộc đời chỉ giảng kinh và thuyết pháp. Vì sao Phật nói thời kinh Bát Nhã đến haimươi năm? Nói đến Bát Nhã là nói đến trí tuệ, là thuyết minh chân tướngcủa vũ trụ và nhân sinh. Hai mươi năm nói pháp mà chỉ quy nạp tổng kết lại chỉ trong 260 chữ. Nói một cách tường tận hơn, người Trung Quốc thích thú đọc kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Đây là một bộ kinh ngắn đại biểu cho sự tinh hoa trong hai mươi năm thuyết kinh Bát Nhã của Đức Thích Ca. Trong đó, điều quan trọng nhất Phật dạy chúng ta là ba tâm không thể nắm giữ. Tâm quá khứ không thể nắm giữ, tâm hiện tại không thểnắm giữ, và tâm vị lai cũng không thể nắm giữ. Tâm hàng ngày mà chúng ta nghĩ có thể nắm giữ được, đó chỉ là khái niệm và vọng tâm, không có thật. Những gì chúng ta nắm giữ hàng ngày không kể là vật chất hay tinh thần, Phật dạy chỉ là do nhân duyên biến hiện, là duyên sinh. Bất kể vậtgì đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, nó không có tự thể. Vì thế mớinói bản thể vốn không nên không thể nắm giữ. Vì thế, trong Kinh Kim Cang, Phật dạy: “Phàm những vật có hình tướng đều hư vọng”. Sau đó, Phậtđưa ra kết luận: “Tất cả các pháp hữu vi như mộng huyễn, bào ảnh”. Nhưmộng huyễn bào ảnh là chỉ cho tất cả vạn vật trong vũ trụ đều không chân thật. Khoa học hiện đại cũng đã khám phá ra điều đó. Họ đã dùng phương pháp phân tích vật chất, phân thành phân tử, nguyên tử, cuối cùnglà điện tử. Mỗi lần nghiên cứu như vậy họ mới khám phá được sự thật của chân tướng của vạn vật là tất cả đều không có thật, tất cả đều do nhiều yếu tố phân tử, nguyên tử và điện tử kết hợp lại mà thành. Như vậy, cách đây ba nghìn năm trước, Đức Phật đã nói một cách rõ ràng về những hiện tượng vật chất trong vũ trụ, đủ cho chúng ta thấy đạo Phật làđạo khoa học. Khoa học ngày nay phát triển chẳng qua chỉ chứng minh rõ ràng những lời Phật dạy mà thôi. Phật dạy chúng ta tất cả các sự vật đềutạm bợ, huyễn tưởng, nó tồn tại rất ngắn, không thật, không tồn tại mãimãi, cho nên tất cả chỉ như sương hay như điện chớp. Chúng ta thử nghĩ xem, hạt sương ban mai đọng trên đầu ngọn cỏ, dưới ánh nắng mặt trời có thể tồn tại lâu dài hay không? Trong khi thời gian liên tục đổi thay, vạn vật biến chuyển sinh diệt trong từng sát na. Sát na là chỉ cho khoảng thời gian rất ngắn, chúng ta phàm phu không thể nhìn thấy được, chỉ có Phật mới đủ trí tuệ thấy được một cách rõ ràng. Sinh diệt tức là không sinh diệt, vì thời gian rất ngắn, cho nên trong sinh có diệt và trong diệt có sinh. Vì vậy trong sự biến chuyển đó chúng ta không có gì có thể nắm giữ được, không có gì là ta hay của ta. Chúng ta phải có nhậnthức chính kiến như thế mới có thể phóng hạ và buông xả được phiền não.Tất cả đều tùy duyên, tùy duyên thì được tự tại, không phiền não, có phiền não chỉ tự mang đau khổ đến cho bản thân. Tất cả phải tùy duyên, có như thế trong cuộc sống chúng ta mới đạt được mỹ mãn hạnh phúc và tự tại an vui.

    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    23/03/2013(Xem: 4868)
    Xưa nay có một số người hiểu lầm cho rằng Niết-bàn là hư vô, hủy diệt, hay là cái chết. Nếu hiểu như thế thì không đúng với tinh thần kinh điển Phật giáo. (Trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 180, mục Chuyện Đông Chuyện Tây tr. 57, ông An Chi có trả lời một độc giả về xuất xứ của từ Niết-bàn, nhưng về ý nghĩa, ông muốn độc giả tự tìm hiểu lấy. Nhân đây, chúng tôi xin góp ý về cách lãnh hội khái niệm Niết-bàn theo kinh điển Phật giáo, để giúp độc giả nào muốn tìm hiểu thêm một từ ngữ khá hàm súc và thường bị ngộ nhận này).
    21/03/2013(Xem: 4597)
    Mỗi khi Phật giáo di cư từ vị trí của nó có nguồn gốc tại Ấn Độ đến các quốc gia khác như Sri Lanka, Miến Điện, Nhật Bản, Trung Quốc hay Tây Tạng…triết học, phong tục và nghi lễ cũng được thay đổi. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, sự tái định cư của Phật giáo với phương Tây kèm theo với một số thay đổi của những sự nổi bật và văn hóa. Ở Tây Tạng, các bậc thầy tôn kính có thể cô lập mình trong các hang động xa xôi, đôi khi hàng chục năm trong đại định.
    18/03/2013(Xem: 6420)
    Mỗi năm hoa Vô Ưu lại nở một lần, những người con Phật sống dưới bất cứ phương trời nào, dù ngôn ngữ bất đồng, nhưng muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày Đản sinh của đức Từ Phụ. Hình ảnh của đức Thế Tôn là một bài ca bất tuyệt, giáo pháp của Ngài là ánh hải đăng chiếu sáng nghìn thu. Những pháp âm tại vườn Lộc Uyển, núi Linh Thứu thuở nào dường như còn vang vọng đâu đây. Pháp âm ấy tỏa khắp muôn phương, thấm sâu vào tâm hồn của những chúng sinh đang khát khao hạnh phúc và chân lý.
    23/02/2013(Xem: 5529)
    Một thời đức Phật ngự tại rừng Ca Duy nước Thích Sí Đề cùng với 500 Thánh tăng toàn là bậc A La Hán, bấy giờ có bốn vị Trời ở cõi Tịnh Cư nơi Thiên cung đều nghĩ: “Nay đức Thế Tôn và 500 vị Đại Tăng, toàn là bậc Thánh A La Hán đang ngự trong rừng Ca Duy thuộc nước Thích Sí Đề, đồng thời có vô số chư Thiên với thần thông vi diệu từ 10 phương đều tập trung ở đấy để kính lễ đức Như Lai và chúng Đại Tăng.
    19/02/2013(Xem: 6324)
    Một câu hỏi lớn nằm dưới kinh nghiệm của chúng ta, dù chúng ta nghĩ về nó một cách ý thức hay không: mục đích của cuộc sống là gì? Tôi đã cân nhắc câu hỏi này và muốn chia sẻ những suy nghĩ của mình với hy vọng rằng chúng có thể có lợi ích trực tiếp và thực tế đối với những ai suy nghĩ về chúng.
    11/01/2013(Xem: 7191)
    Khi chúng ta nói về tính bản nhiên của tâm thức trong phạm trù Phật Giáo, chúng ta phải hiểu rằng nó có thể được hiểu trên hai trình độ khác nhau: 1- Trình độ căn bản của thực tại, nơi tính bản nhiên của tâm được hiểu trong dạng thức của tính không của nó của tính tồn tại vốn có, và 2- Sự liên hệ hay trình độ quy ước, điều liên hệ đến chỉ là phẩm chất của độ sáng, tri thức và kinh nghiệm.
    26/12/2012(Xem: 6172)
    Là pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha. Vì sao? Vì niệm Phật vãng sinh, được thấy Phật nghe pháp, chứng vô sinh nhẫn, đắc thân, khẩu, ý tam luân bất tư nghì nghiệp, trở lại tam giới quảng độ chúng sinh. Trong cái chán khổ ấy chính là muốn cứu khổ cho chúng sinh, tức tâm đại bi của Bồ Tát vậy...
    14/12/2012(Xem: 9947)
    Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
    13/12/2012(Xem: 9357)
    Chúng tôi nghĩ chúng tôi vừa trả lời điều ấy! Về mặt khác, chúng tôi không có câu trả lời đặc biệt đến câu hỏi của bạn. Tuy thế, chuyển hóa thái độ tinh thần là nhiệm vụ chính của chúng ta. Làm thế nào chúng ta có thể hoàn thành điều này: Làm thế nào chúng ta có thể mang việc làm này về trong gia đình và trường học?
    13/12/2012(Xem: 6963)
    Tôi thường cầu nguyện rằng tất cả chúng ta sẽ luôn luôn tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con. Bởi khi chúng ta bám chấp vào tâm thức của riêng ta, hình ảnh của bản thân ta, năng lực trí thức của ta, ta đánh mất một điều gì đó. Tâm ta trở nên chai cứng. Đối với hành giả Giáo Pháp lâu năm, điều tối cần thiết là họ cần tiếp cận với Pháp như những đứa trẻ, bởi chúng ta có cảm tưởng rằng ta không phải kiểm soát bản thân nữa. Ta không phải khảo sát tâm ta thêm nữa. Ta không phải thực sự nhìn vào trong và xem điều gì xảy ra. Vì thế ta trở nên khô cạn. Ta làm hư hại Pháp.
    facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
    Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
    nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

    May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
    Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
    may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
    the Land of Ultimate Bliss.

    Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
    Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
    Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
    Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
    Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
    Website: http://www.quangduc.com
    http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
    Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
    [email protected]