Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Khi Tịnh Tài sinh Bất Tịnh

03/09/201102:06(Xem: 10729)
4. Khi Tịnh Tài sinh Bất Tịnh

NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG
Trần Kiêm Đoàn

NHẬT KÝ HÀNH HƯƠNG 4

Ngày 6 - 8 - 2011
Khi Tịnh Tài sinh Bất Tịnh

Sáng nay, được anh chị Phương và anh chị Xuân đưa về thăm thành phố New Orleans, tôi được nhìn lại thành phố gần tròn 6 năm sau ngày trận bão lụt Katrina tàn phá khủng khiếp với gần 1,500 người thiệt mạng. Đây là Thành phố có độ thấp dưới mặt nước biển từ một đến ba mét (1 mét = 3.28 feet) nên đi giữa lòng phố xá mà vẫn có cảm giác “ớn lạnh” như đang đi giữa lòng biển khơi. Tháng 8 năm 2005, nơi đây là biển nước mà tháng 8 hôm nay, chúng tôi đang đi giữa biển nắng vàng. Trong vô thường cũng đã có sẵn cái bình thường. Như tuổi già cảm nhận được hạnh phúc về chiều của bước chân rong chơi cũng gần với ngày “đi thật” nên dẫu chân có bước giữa vô thường mà lòng vẫn thấy bình thường. Nếu không có vô thường của tre tàn thì làm sao có bình thường của măng mọc.

Thành phố New Orleans – một thời là một trong bốn thành phố lớn nhất của Hoa Kỳ – đã hồi sinh sau thiên tai. Đời sống đang tấp nập trở lại tự nhiên như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông; rồi Xuân… Chúng tôi dừng lại khu thị tứ French Quarter, nơi được xem như mảnh hồn văn hóa châu Âu cũ của những ngày cả miền Đông Nam nước Mỹ còn ở trong ảnh hưởng Pháp. Chín giờ sáng, muốn vào uống một tách cà phê kiểu Tây ở quán Du Monde cũng phải sắp hàng dài mất cả tiếng đồng hồ. Du Monde của 29 năm về trước nằm nhỏ nhắn xinh xinh trên bãi cỏ xanh bên bờ sông Mississippi lộng gió không còn nữa. Dãy thành cao đã che chắn tầm mắt thủy thủ của khách phương xa về đây tìm lại hình ảnh sóng nước của dòng sông.

Rời quán nước, chúng tôi tìm thăm các chùa Phật giáo Việt Nam nơi đây. Với một cộng đồng người Việt 15 nghìn người, New Orleans có 3 chùa. Cả 3 chùa đều đẹp, kiến trúc mỹ thuật mỗi nơi một vẻ, nhưng có vẻ vắng người sinh hoạt trong một ngày cuối tuần đẹp trời như hôm nay. So với thành phố Sacramento nơi tôi đang ở có 13 chùa với số dân Việt 18 nghìn người. Những số liệu và số lượng chưa hẳn đã nói lên được điều gì quan trọng. Nhưng ít nhất cũng phản ánh được khía cạnh của nhu cầu và thực tế.

Trong ý tưởng hành hương mùa Hè, tôi tự tạo những cơ hội "thuận duyên" cho mình được viếng các chùa viện Việt Nam từ miền Tây sang miền Đông; từ các vùng Trung Mỹ lưa thưa người Việt đến xứ "sa mạc trường canh" có nơi nóng tới 111 độ F như ở xứ Arizona gần biên giới Mễ Tây Cơ. Có khi ngồi trên máy bay cất cánh rồi, tôi mới chợt nhận ra là chưa biết đêm nay mình sẽ xin ngủ lại chùa nào, nhất là khi về Nam Cali, nơi có nhiều chùa Việt Nam và phần lớn có người quen biết nên khỏi phải "báo trước giữ chỗ" theo kiểu Mỹ.

Thật là thú vị. Nhất quận công, nhì không nhà. Đi mà nơi đâu cũng thảy đều có thể là nơi chia tay, điểm hội ngộ và chốn quay về với cái tâm vô cầu, cái chí vô quái ngại là cả một niềm an lạc. Hơn thế nữa, chi phí cho "tam thường" như ăn, ngủ, mặc càng già càng đơn giản nên nằm trong khả năng khiêm tốn của tuổi già muốn làm khách hành hương.

Nét đẹp truyền thống của các chùa Việt bình thường so với các chùa Tàu, chùa Tây Tạng, chùa Nhật Bản… nguy nga đồ sộ trên xứ Mỹ nầy là điểm dễ ghé, dễ gần khi khách hành hương muốn tới lễ Phật, làm công quả. Cái đẹp đơn giản mà hầu như chùa Việt nào cũng có là tinh thần hoan hỷ đón khách: Một chung trà với thầy Trụ trì, một bữa cơm chay với các bác Đạo hữu, một đêm ngủ chùa thức khuya dậy sớm mà đôi mắt không cay sè ngái ngủ theo tiếng chuông công phu là hương vị cửa thiền đầy thanh nhã. Có thanh nhã mới thanh thoát. Có thanh thoát mới thanh cao. Có thanh cao thì trạng thái tâm linh mới nhẹ nhàng gần phương giải thoát.

Mùi tục lụy dễ làm cho những con đường tìm về phương trời cao rộng của tâm linh là tiền bạc, vật chất. Tiền là huyết mạch của đời sống phàm trần; nhưng đồng thời cũng là nghiệp chướng làm cho con ngưòi điên đảo. Tiền là chỉ dấu quan trọng nhất của sự sở đắc. Nó xác định cái "có" của thế giới hình tướng. Cái có là bến bờ sau cùng của sự giác ngộ hình tướng. Thái tử Tất Đạt Đa đã tới được bến bờ của sự "giác ngộ hình tướng" đó khi sinh ra đời trong cung vua. Nhưng sau lớp hình tướng của ngai vàng, điện ngọc, quyền lực, tiền bạc lạnh lùng; của ái dục tham đắm và si mê thì sự đau khổ của kiếp người vẫn còn nguyên vẹn. Đau khổ vừa là nguyên nhân mà cũng vừa là hậu quả của thế giới hình tướng. Qua bao nhiêu thời gian, con người đã tuyệt vọng ném sự đau khổ của mình cho ma quỷ lẫn thần thánh với ước mong được cứu rỗi giữa đời nầy và sau khi chết. Con người đã quá mệt mỏi nên sinh ra lười biếng lý luận. Họ ném cục đá vào không gian vô tận với tất cả lòng tin vô điều kiện rằng, họ sẽ quăng vỡ mặt trời cho trần gian... đỡ nóng! Chỉ có một người không hung hăng quăng cục đá phá mặt trời xa vời tít tắp trên cao ấy – do tham lam, sân si và kiêu mạn gây nên – mà hoàn toàn tĩnh lặng, chiêm nghiệm cái nóng thiêu đốt phát khởi tự lòng mình: Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, tiền thân của đức Phật Thích Ca.

Đạo Phật là tập đại thành của một dòng tâm thức, ý thức và nghiệp thức, nhất quán từ bỏ cái Có hình tướng để tìm về cái Chân Không Rỗng Lặng của thật tánh uyên nguyên nằm sẵn trong mỗi sinh thể. Sự từ bỏ ấy cần quy hợp cả "tam chánh hạnh" là hạnh Bi, hạnh Trí và hạnh Dũng. Sự suy diễn sai lầm nhất của những đầu óc duy Tướng, kiến Tướng mà không nhận ra lý Tánh giữa cuộc đời hiện thực nầy là chỉ thấy sự buông bỏ vật chất, thái độ từ bỏ danh vị hão huyền của đạo Phật như là một thái độ yếu đuối, bi quan xa rời cuộc sống hay tệ hơn nữa là "thủ tiêu tinh thần tranh đấu"! Khi cần, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã phát huy oanh liệt hạnh Dũng để cầm quân ra trận đánh tan quân xâm lược Mông Nguyên, thể hiện tròn đầy hạnh Trí để nhường ngôi vua và theo đuổi đến cùng hạnh Bi để xuất gia lên núi Yên Tử.

Đức Phật không gọi tên hay dán nhãn hiệu mà nhìn thấu tận gốc rễ của thực thể muôn loài, muôn vật để đưa ra phương thức đối trị. Phật nhìn thấu suốt cái Tánh Rỗng Lặng của cái Ta giả tạm và cái Người hư huyễn. Bám vào cái bè lau cứu rỗi của thần thánh giữa dòng đời chảy siết trong sinh diệt trùng trùng là cái khổ của vô minh. Cho nên, cần tỉnh táo để tự cứu mình và giúp người biết tự giải cứu ra khỏi dòng u trầm đau khổ đó, không có lý giải nào siêu việt hơn là biết xả bỏ cái giả tạm, thấy được cái Không Chân Thựcđể nương theo và tự cứu mình.

Lịch sử thăng trầm của đạo Phật trong hơn hai nghìn năm trăm năm qua là lịch sử tranh đấu gay go vừa nội tại, vừa ngoại cảnh giữa Chánh NiệmVọng kiến; giữa cái Có Đời Thườngvà cái Không Rỗng Lặngcủa Đạo. Tự bản chất, Đạo là con đường sửa sai, làm lành để nuôi lớn lòng trong và trí sáng; chứ không phải là một chuỗi sinh hoạt van xin, cầu khẩn để mỗi ngày trở nên yếu đuối, nương nhờ và tối tăm hơn.

Tuy lịch sử không lập lại nguyên trạng như chuyện tắm hai lần trên cùng một dòng sông; nhưng hệ quả của một sự suy tàn hay đổ vỡ trong một hệ thống tôn giáo có nhân sinh quan và vũ trụ quan xuyên suốt Tánh Không như đạo Phật thường phát xuất từ một số nguyên nhân tương đối có bản chất giống nhau. Thử điểm lại nguyên nhân và hậu quả của những chặng đường “pháp nạn” của đạo Phật Đông Tây và xưa nay là do đâu?

Đạo Phật suy tàn ở Ấn Độ sau thời “cực thịnh” dưới triều đại A Dục Vương (Asoka, 272-236 TTL). Trong lịch sử hơn 2000 năm từ thời Hậu Hán đến “Thái bình thiên quốc”, qua 14 triều đại, đạo Phật Trung Quốc bị tàn hại tới bốn lần. Đạo Phật Triều Tiên sau thời vua Hiếu Tôn (1650-1659) đã mất hết sinh lực phải nương nhờ Phật giáo Nhật Bản vực dậy. Đạo Phật ở Việt Nam sau thời đại Lý Trần cho đến ngày nay cũng đã trải qua bao nhiên lần thịnh suy. Hình trạng diễn ra tuy có khác, nhưng sự xuất phát thì đều bắt nguồn từ những tạp hợp nguyên nhân giống nhau. Mở đầ cho cuộc chấn hưng Phật giáo lớn rộng gần đây nhất do Thái Hư Đại Sư chủ xướng tại trung Quốc thời 1930 và có ảnh hưởng lớn đến cácc tổ chức Phật giáo của các nước trong vùng, Chu Tử Kiều, một trong những khuôn mặt năng nỗ nhất của nhóm lãnh đạo cải cách đã nhận định:

“Trong ba ngôi Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng ví như Trí, Tâm, Thân của một cơ thể. Dẫu Trí sáng và Tâm lành đến mấy, nhưng Thân bệnh thì cơ thể đó cũng chịu cảnh khiếm dụng. Đó là khi nền tảng cơ bản làm xương sống cho sự sinh hoạt và phát triển của đạo Phật là Tăng Đoàn bị suy đồi, mất dần phẩm chất. Chùa chiền, lễ nghi và chức danh trở thành hình thức trang trí và làm thước đo phàm tục cho công hạnh dày mỏng của nhà tu.”

Trong Luật Tạng dành cho giới tướng Tỳ Kheo và Phương Thức Sám Tội, chương 4, phần Xả Đọa (Nissggiya), điều giới 18 quy định:

“Tỳ kheo nào tự tay cầm tiền, hoặc vàng bạc, hoặc bảo người cầm, hoặc để xuống đất mà nhận, phạm Xả Đọa.”

Về Điều Giới nầy, Chu Tử Kiều diễn giải thêm về tệ nạn đương thời đưa đến nhu cầu cấp thiết mở đầu cho phong trào chấn hưng Phật giáo:

usdollars“ Ngày nay, đạo pháp suy vong, tiền bạc nằm trong tay bậc tu hành. Giới xuất gia sống xoa hoa, phù phiếm trên sự hy sinh công sức và tiền bạc của hàng cư sĩ, phật tử tại gia phải hy sinh mồ hôi nước mắt mới kiếm được. Hàng đại tăng, cao tăng và danh tăng chân tu thì mủ ni che tai tìm tới cõi vắng mà quy ẩn tu chứng cho riêng mình. Hàng phàm tăng vọng tu thì xuất hiện khắp nơi. Kẻ tham lam, ái dục đội áo mảo nhà tu bợ đỡ giới cầm quyền, mua chuộc giới trưởng giả đại gia, chia bè kết phái để kiếm quyền, kiếm lợi; an nhiên sống hưởng thụ trên sự hy sinh không đúng chỗ và tín tâm cúng dường sai lạc của khối tín đồ nhẹ dạ chỉ biết thụ động đến chùa với tinh thần sùng bái cực đoan gần như mê tín. Hành động phong thánh tu sĩ, dâng cúng tiền bạc của cải vô điều kiện của đại chúng Phật tử như thế đã gây ra tác dụng ngược chiều. Ý nghĩ tốt đẹp ‘cúng dường xây dựng đạo pháp’ ban đầu có nguy cơ biến tướng thành gió bão kim tiền làm suy vi đạo pháp. Một khi chấp thủ tiền bạc trong tay, lòng thanh tịnh của người tu hành sẽ trở thành bất tịnh. Tiền bạc sẽ sinh ra lòng tư hữu; thay vì tìm tới cửa Không, người tu hành sẽ bị dính mắc vào ham muốn cá nhân, bị thu hút vào đời sống có nhiều phương tiện vật chất tham dục của phàm nhân. Trong hai thập niên qua, ở Nam Kinh, Giang Tô, Triết Giang, Chấn Giang, Dương Châu, Hồng Châu, Phả Đà Sơn, Ngũ Đài Sơn… đã xây nên nhiều ngôi đại Già Lam thật là nguy nga tráng lệ. Nhưng đáng lo thay, tự viện thi nhau mọc lên càng cao, càng lớn thì giới hạnh của Tăng chúng càng kém và công hạnh của tăng đoàn càng bé lại.”(Chu Tử Kiều: Tam Phật Chủ Nghĩa. Thư Vụ Ấn Quán, 1931.)

Suy gẫm dòng lịch sử Phật giáo xưa và nay, khách hành hương bỗng thấy có những điều trùng hợp. Đạo Phật là con đường đi tìm sự rỗng lặng của Không để giải thoát trong một thế giới bon chen đi tìm cái Có để xác định sự hiện hữu và sinh tồn. Đạo Phật không xuất thế như đạo Lão hay nhập thế như đạo Nho, vì thật ra, xuất thế cũng chỉ là mặt phải hay bề trái của nhập thế. Thay vì ôm sự nghiệp công danh của Khổng Mạnh thì lại ôm giấc mơ Lão Trang, xem thế sự như là một giấc mộng lớn. Với đạo Phật thì nhập thế cũng là xuất thế và cõi ra đi cũng là chốn quay về giữa thế cuộc trùng trùng duyên khởi.

Nói về nguyên nhân của những thời kỳ đạo Phật bị bài bác và tàn hại, đức Lạt Ma Đề Văn đã viết trong Phật Giáo Sử Luận, rằng:“Khi Phật giáo bị thế lực đời thường sử dụng thì cũng chính là khi người ta hiểu nhầm lẫn là “cực thịnh” vì bị dính mắc rồi bám chặt vào cái có của phàm trần.Vô hình chung, đạo Phật tự biến tướng thành một thế lực đại thù nghịch của các thế lực chủ trương “Sở hữu” quần chúng, vật chất, tiền bạc, địa vị, danh xưng… Trong cuộc đối đầu đầy mỉa mai và nghịch lý giữa một đạo Phật chủ trương tay không, tâm tịnh, lòng từ với những thế lực tay ôm vũ khí sáng lòa, tâm đầy thù hận, lòng quyết tiêu diệt kẻ thù như các thế lực Bà La Môn, Hồi Giáo, Nho Giáo đương quyền… thì làm sao đạo Phật tránh được những cuộc tàn hại quy mô như đã xẩy ra sau khi các triều đại hưng thịnh Phật giáo lụi tàn.” (Patham Pub; New Deli. 1981)

Điểm lại dòng giáo sử hơn 2000 năm, thời kỳ nào mà thiền sư trở thành quân sư, quan sư, quốc sư, vương sư… là đạo Phật đang bị dính mắc vào danh tướng và thế quyền đầy phiền não, báo hiệu chiều hôm trước của sự thoái trào. Thời còn tại thế, đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi Tỳ Kheo thường xuyên có các vị quốc vương, tể quan, trưởng giả tiếp cận và mời mọc đủ mọi điều. Nhưng tất cả đều như trăng soi đáy hồ; trăng lặn, hồ trong và chẳng còn lưu dấu vết. Vật sở hữu trong tay Phật và hàng đại đệ tử cũng chỉ có chiếc bình bát để ngày ngày khất thực và mấy mảnh pháp y đủ che thân. Nơi cư trú và nói Pháp của Phật và Tăng đoàn vẫn là khu vườn Cấp Cô Độc. Thế giới cao rộng của đạo Phật còn tỏa sáng muôn đời sau là trí tuệ tròn đầy và gương soi vằng vặc về nếp sinh hoạt tịnh hạnh và giản đơn của chư Tăng.

Bởi vậy, cửa chùa còn được gọi là Cửa Tịnh.

Tịnh là một từ Hán Việt gồm hai ý: Trong sáng + sạch sẽ.

Hòn đá sạch sẽ mà không trong nên chưa tịnh.

Thau nước trong mà không sạch nên chưa tịnh.

Nhà chùa vừa trong vừa sạch nên gọi là tịnh xá.

Khi lòng người vừa trong, vừa sạch thì gọi là tịnh tâm.

Khi vào cửa chùa, Tịnh còn có thêm ý nghĩa là rỗng lặng vắng lặng, yên ắng, định tâm, chánh niệm (Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng). Tiền bạc cúng dường vào cửa nhà chùa thì được gọi là Tịnh Tài. Nghĩa là đồng tiền trong sáng, sạch sẽ, vắng lặng; không làm dấy động lòng kiêu của kẻ cho và lòng tham của người nhận.

Tiền bạc cúng cho nhà chùa phải là đồng tiền lương thiện.

Người cúng, phải cho bằng cái tâm trong sáng, vắng lặng. Cho mà không cần ai biết và không cầu trả lại.

Người nhận, cũng phải nhận bằng cái tâm trong sáng. Nhận mà không khởi lên ý nghĩ tham lam, sở đắc nào; và tuyệt đối phải sử dụng tiền bạc cúng dường vào những việc Phật sự hoàn toàn vắng bóng cái “Ngã” (ngã tham, ngã chấp, ngã sở, ngã dục, ngã mạn).

Xã hội hôm nay là một xã hội thực dụng mà sức mạnh của đồng tiền đang trở thành vô địch. Khi nền móng xã hội lung lay vì tiền thì chốn thiền môn, cửa giáo đường, nơi tu viện sẽ rất khó mà trở thành nơi vô nhiễm.

Trên bước hành hương mùa Hè năm nay, tôi đã được đi qua và biết nhiều nơi tôn giáo ở Mỹ. Hầu như ở đâu đời sống tâm linh cũng ít nhiều bị dao động hay chao đảo vì vấn đề vật chất tiền bạc. Mức độ chao đảo mạnh hay yếu, lộ mặt hay được che chắn khéo léo còn tùy thuộc cá nhân và từng cơ sở chùa viện. Nhưng dẫu lạc quan và cẩn trọng đến mấy thì cũng khó mà phủ nhận được rằng, đạo Phật Việt Nam đang đứng trước cơn gió bão thử thách của thời đại vật chất thực dụng. Sở dĩ chúng tôi nhấn mạnh đến tình cảnh của đạo Phật Việt Nam vì đất nước và dân tộc Việt Nam vừa mới và đang trải qua những cơn quặn mình của lịch sử. Khi con người đối diện với một hoàn cảnh chưa ổn định thì tâm lý bon chen sở hữu tiền bạc để sống còn sẽ chế ngự đời sống tâm linh. Thứ “tâm lý sống còn” nầy thường rất phổ biến trong một hoàn cảnh xã hội, chính trị, kinh tế còn tranh tối tranh sáng, chưa định hình rõ rệt.

usdollars-smNhư lời sư Hằng Tịnh ở Đài Loan nói trong băng thuyết pháp năm 2011, nhan đề Tránh Bài Sư Phá Phật:“Xã hội ngày nay đang lâm cảnh ‘sùng tài đạo tán’. Nếu không khéo thì người cúng dường thiếu mất hạnh Bố thí Ba La Mật đã đành mà phía tiếp nhận lại càng xa công hạnh Lục độ Ba La Mật. Nghĩa là cả hai phía tín đồ cúng dường và phía tu sĩ tiếp nhận đều đang bị đồng tiền chi phối làm mất đi ý nghĩa tịnh tài song hành với tịnh tâm ở chốn cửa Thiền. Ngày nào tu sĩ còn nắm giữ tiền bạc trong tay thì ngày đó còn lâm cảnh tâm bất tịnh. Tâm loạn thì làm sao mà an trú trong giới luật cho đuợc. Nếu chưa độ được mình thì mong gì độ được ai. Bởi vậy, mỗi chùa cần có một Ban Tài Chánh minh bạch. Cần công khai rõ ràng về mọi sự thu chi. Vị tu sĩ trú trì chùa tuyệt đối không giữ tiền, không nắm tiền và không dính vào tiền là điều kiện tiên quyết cho tịnh tài không sinh ra bất tịnh. Phật tử có tín tâm mà đặt tiền trong tay nhà tu là đang gián tiếp bài sư phá Phật mà vô tình không biết…Hệ Thống các chùa Thuyền Môn đã tổ chức cơ sở tịnh tài rất khéo là làm một thẻ Tín Dụng (credit card) cho thầy Trú trì. Vị Trú trì có quyền chi tiêu việc Phật sự theo nhu cầu cần thiết hàng ngày, nhưng việc dùng tiền đều hiện ra rõ ràng trong hồ sơ thẻ tín dụng hàng tháng, Cuối tháng, ban Tài chánh của chùa lo thanh toán mà không ai thắc mắc về sự trong sáng của Thầy trú trì nên pháp uy thầy càng tăng trong đại chúng.”

Phải chăng, khái niệm Tịnh tài truyền thống chốn thiền môn đang bị bứng ra khỏi nguồn gốc sinh khởi để trở thành bất tịnh khi sư Hằng Tịnh tha thiết nói lên mối quan hệ tiền bạc của nhà tu.

Hơn hai nghìn năm qua, hàng triệu ngôi chùa lộng lẫy nguy nga và triệu triệu tăng tín đồ chỉ còn là cát bụi. Nhưng trí tuệ Phật Đà và dáng vẻ thiền định, rỗng lặng của đức Phật và thế giới đạo Phật vẫn mãi mãi là biểu tượng cho dòng tâm linh thái bình an lạc của nhân gian.

Tu không phải là chắp tay nhắm mắt theo đuôi dòng sự việc của tâm lý đám đông mà cần có sự chọn lựa. Trước khi tu chứngthì cần có tu sửa, tu tập, tu duỡng và tu hành.Vì tu là một tiến trình gạn đục khơi trong của thân và tâm nên “tu bụi” – Tu Giữa Bụi Trần – là khó nhất.

New Orleans, mùa Vu Lan 2011

Trần Kiêm Đoàn


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 5453)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 6408)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5954)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 10307)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4995)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3893)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6977)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 7792)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 13244)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]