Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phỉ báng bậc thánh

10/05/201208:51(Xem: 4926)
Phỉ báng bậc thánh
PHỈ BÁNG BẬC THÁNH
Toàn Không

1)- TỲ KHEO CÙ BA LY:

Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấy có Tỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa:

- Thưa Thế Tôn, hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tạo các ác hạnh, làm các việc ác.

Đức Phật nghe rồi bảo Tỳ Kheo Cù Ba Ly:

- Chớ nói thế, Thầy hãy phát tâm vui vẻ đối với Như Lai, Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên làm việc thuần thiện, không có điều ác.

Tỳ Kheo Cù Ba Ly nói lần thứ hai cũng như thế và đức Phật cũng trả lời như thế, lần thứ ba Tỳ Kheo Cù Ba Ly bạch Phật:

- Như Lai nói thật, không có hư dối, nhưng Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên việc làm rất ác, không có gốc lành.

Đức Phật bảo:

- Thầy là người ngu si, chẳng tin lời Như Lai mới nói Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên việc làm rất ác, không có gốc lành; nay Thầy tạo ác khẩu này, không lâu sẽ chịu quả báo.

Lúc ấy, Tỳ Kheo Cù Ba Ly cúi đầu lễ Phật rồi lui đi; không bao lâu sau thân mọc mụn nhọt, trước nhỏ như hạt cải, sau lớn dần bằng hạt đậu, hột ngô, rồi to dần bằng đầu ngón tay ngón chân cái, tới bằng quả đào, bằng nắm tay. Máu mủ chảy ra, đau đớn khổ sở rên rỉ “nóng quá, nóng quá!” kêu than đau đớn cho tới khi chết!

Đêm ấy có 2 vị Trời đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật, rồi vị thứ nhất thưa:

- Cù Ba Ly đã chết rồi.

Vị thứ hai nói:

- Cù Ba ly chết rồi vào địa ngục.

Tôn Giả Mục Kiền Liên nghe sự việc như thế và nghe Cù Ba Ly qua đời chưa được bao lâu, liền đến chỗ đức Phật, cúi lạy rồi bạch:

- Thưa Thế Tôn, Cù Ba Ly chết rồi sinh về đâu?

Đức Phật nói:

- Người đó sinh trong địa ngục Hoa Sen (có cách ghi địa ngục Bát Đàm Ma).

Tôn Giả thưa:

- Nay con muốn đến đó giáo hóa Cù Ba Ly.

Đức Phật bảo:

- Thầy chẳng cần đến đó.

Tôn Giả Mục Kiền Liên lại thưa:

- Con muốn đến đó giáo hóa Thầy ấy.

Đức Phật im lặng không đáp; Tôn Giả Mục Kiền Liên tại chỗ ngồi liền biến mất, từ vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ liền đến đại địa ngục Hoa Sen. Ngay lúc ấy, Tôn Giả trông thấy có tội nhân đang bị lửa đốt, lại có trăm con trâu đang cày trên lưỡi; Tôn giả hỏi Quỷ tốt, thì được biết đó chính là Cù Ba Ly.

Tôn Giả Mục Kiền Liên ngồi kiết già trong hư không, búng ngón tay làm cho lửa tắt trâu ngừng và Cù Ba Ly tỉnh lại. Tôn Giả nói:

- Hãy nhìn đây, Cù Ba Ly.

Cu Ba Ly ngước lên hỏi:

- Ông là ai?

Tôn Giả đáp:

- Cù Ba Ly, ta là đệ tử Phật Thích Ca, tên Mục Kiền Liên.

Lúc ấy Cù Ba Ly trông thấy Tôn Giả Mục Kiền Liên, liền thốt lên lời ác:

- Nay tôi đang bị khổ này vẫn không thoát khỏi thấy ông sao?

Cù Ba Ly vừa nói xong, lửa lại bùng lên đốt, có nghìn con trâu cày trên lưỡi; Tôn Giả thấy thế tăng thêm buồn rầu, sinh lòng hối hận, liền biến mất khỏi địa ngục ấy trở về chỗ đức Phật cúi lạy xong đem nhân duyên ấy thưa lại, Ngài bảo:

- Trước Ta đã nói: “Chẳng cần đến gặp kẻ ấy”.

Rồi đức Phật nói kệ:

Người sinh ở thế gian,
Búa rìu từ trong miệng,
Trở lại chém thân mình,
Do những lời nói ác.
Đáng chê đổi thành khen,
Đáng khen thì lại chê,
Tội ấy sinh bởi miệng,
Chết rơi vào địa ngục.

Đức Phật bảo tứ chúng:

- Hãy học ba pháp để thành tựu hạnh của mình. Đó là: Thân làm lành, miệng nói lành, ý nghĩ lành; các Ông hãy học điều này.

LỜI BÀN:

Bài kinh ngắn trên đây nói về câu chuyện Tỳ Kheo Cù Ba Ly nói xấu hai Tôn Giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, đức Phật bảo không phải như vậy, nhưng Cù Ba Ly nhắc đi nhắc lại ba lần như thế. Cuối cùng, đức Phật bảo Tỳ Kheo Cù Ba Ly là ngu si không tin lời Phật, đã nhất quyết nói hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền liên làm việc làm rất ác, không có gốc lành. Rồi đức Phật thọ ký: “Nay Thầy tạo ác khẩu, không bao lâu nữa sẽ chịu quả báo”.

Ngay khi đức Phật nói xong, nếu Tỳ Kheo Cù Ba Ly hiểu lời Ngài nói mà xin sám hối thì chắc chắn đức Phật sẽ tha tội cho, nhưng vì u mê nên đã làm thinh, chỉ lễ lạy rồi lui đi.

Một điểm cần để ý là Tỳ Kheo Cù Ba Ly đã không nói rõ hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã làm việc gì ác, mà chỉ nói: “việc làm rất ác, không có gốc lành”, nghĩa là Tỳ Kheo Cù Ba Ly đã không nêu lên việc làm ác một cách cụ thể.

Sự việc là do Cù Ba Ly thuộc nhóm Đề Bà Đạt Đa chia rẽ Tăng đoàn, mưu hại Phật, cấu kết nhau tham lợi dưỡng của Vua A Xà Thế, bị Tôn giả Xá Lợi Phất một lần đến cảnh cáo, và một lần khác cùng Tôn giả Mục Kiền Liên đến chỗ Đề Bà Đạt Đa mang một số Tỳ Kheo của phe Đề Bà Đạt Đa bay lên không đi mất.

Thiết nghĩ, Tỳ Kheo Cù Ba Ly là người có tâm thù hằn vì không hiểu, cố chấp quan điểm của mình, nên dù có bị bệnh khổ sở đến chết cũng không làm cho tỉnh ngộ được sự lỗi lầm; giả thử khi đang bị bệnh ung nhọt ngặt nghèo mà Tỳ Kheo Cù Ba Ly tỉnh mê đến xin đức Phật cho sám hối tội lỗi, thì vẫn còn cứu vãn được vậy.

2) – SA DI QUÂN ĐỀ:

Bấy giờ, tại nước Ba La Nại có một Thừa Tướng rất gàu có, nhưng tới 80 tuổi mới sinh được bé trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Quân Đề, cha mẹ rất yêu thương chăm sóc đầy đủ. Đến năm Quân Đề được 10 tuổi, cha mẹ tìm đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại núi Kỳ Xà Quật nước Ma Kiệt, khi gặp Phật, sau khi vái lễ xong, người cha nói:

- Xin Thế Tôn cho Quân Đề được theo Ngài tu hành, vì tới già con mới sinh được một đứa con trai, kính mong Ngài nhận cho Quân Đề được nhập đạo.

Đức Phật nói:

- Hay thay, hay thay Sa Di!

Đức Phật vừa nói xong, tự nhiên tóc Quân Đề rụng hết, đức Phật bảo Tôn giả A Nan thị giả của Ngài đưa áo Cà Sa cho, Quân Đề mặc vào tức thì; rồi Ngài nói pháp cho Quân Đề nghe, chỉ bày dạy bảo, Sa Di Quân Đề sinh lòng vui mừng, liền chứng đạo quả, tức thì giải thoát.

Bấy giờ, mọi người đều ngạc nhiên thắc mắc, Tôn giả A Nan Đà liền đứng dậy vái Phật rồi thưa:

- Bạch đức Thế Tôn, Sa Di Quân Đề quá khứ làm công đức gì mà nay vừa được gặp Thế Tôn chẳng được bao lâu đã chứng quả, sao mau chóng quá vậy?

Đức Phật bảo:

- Sa Di Quân Đề không phải hôm nay mới tu hành mà được như vậy đâu, kết quả của ngày hôm nay là do đời quá khứ đã từng cúng dường cha mẹ và chúng Tăng, và đã từng tu các công đức từ lâu đời rồi.

Rồi đức Phật nói tiếp: Về đời quá khứ xa xưa, sau khi đức Phật Tỳ Bà Thi (Cách nay 91 kiếp = khoảng 6.5 tỷ năm) diệt độ, trong thời chính pháp, có một Tỳ Kheo trẻ, thông suốt ba Tạng Kinh điển A Tỳ Đàm, Tỳ Ni, Tu Đà La. Tỳ Kheo này có diện mạo đẹp đẽ, tiếng nói trong trẻo, thông minh, tài giỏi nên từ Vua Quan đến nhân dân ai cũng biết và ca ngợi.

Lúc ấy, có một Tỳ Kheo già thân hình mặt mũi xấu xí, lại có giọng nói không được tốt, nhưng thường hay tụng Kinh; một hôm, vị Sư Tam Tạng trẻ ấy, ngẫu nhiên nghe thấy vị Sư già tụng Kinh không êm suôi tai, liền sinh tâm hủy báng nói rằng:

“- Tiếng tụng Kinh như thế, chẳng khác nào tiếng chó sủa.”

Vị Sư già nghe vậy nói:

“- Sao Thầy lại hủy báng ta như vậy, Thầy có biết ta chăng?”

Vị Sư trẻ nói:

“- Tôi biết Ông chứ, Ông là Tỳ Kheo già Ma Ha La trong thời chính pháp của Phật Tỳ Bà Thi, sao tôi lại không biết?”

Tỳ Kheo Ma Ha La nói:

“- Ta nay chỗ làm đã xong, phạm hạnh (khuôn phép) đã lập, không còn sinh tử đời sau nữa.”

Vị Sư trẻ nghe nói rồi sinh lòng sợ hãi; vị Sư già liền đưa cánh tay phải ra phóng hào quang sáng rực khắp cả. Vị Sư trẻ tức thì đảnh lễ cầu xin sám hối rằng:

“- Tôi là người ngu si không biết phân biệt Hiền Thánh, xin cho đời sau được gặp Thánh Sư, sạch hết phiền não cũng như Ngài.”

Tỳ Kheo trẻ Tam Tạng ấy vì một lời nói ác hủy báng Thánh nhân, mà sau làm thân Chó 500 kiếp; khi ấy, mọi người trong đại chúng nghe đức Phật nói thế, đều kinh hoàng, không ngờ lời nói ác mà độc hại đến thế; bấy giờ, ai nấy đều tự nghĩ tự nguyện không bao giờ dám dùng lời độc ác hủy báng Thánh Hiền, Thiện nhân.

Đức Phật nói tiếp:

- Cách đây mười năm, tại khoảng giữa hai nước Ma Kiệt và Xá Vệ, có đoàn thương buôn đi ngang qua, người chủ thương buôn có mang theo một con chó. Vào lúc chập tối hôm ấy, người bạn của chủ buôn có nấu thịt để làm thức ăn cho ngày hôm sau, tới đêm, con chó ăn vụng và làm đánh đổ hết. Sáng hôm sau họ định lấy thức ăn ấy ra ăn thì biết con chó đã ăn hết và làm đổ tứ tung cả! Đang gặp lúc đói khát, nên họ sinh ra tức giận, liền cầm dao chặt đứt bốn chân chó, rồi quẳng xuống hố và bỏ đi, con chó ở dưới hố đau đớn quằn quại rên rỉ rất là thảm thiết.

Lúc ấy, Tỳ Kheo Xá Lợi Phất trong đêm dùng Thiên nhãn thấy việc như thế ấy; hôm sau, khi khất thực xong, Tỳ Kheo Xá Lợi Phất liền đến chỗ con chó, đem thức ăn cho nó ăn, rồi nói pháp dạy bảo. Sau khi chết, chó ấy được thoát kiếp Chó trong 500 kiếp, làm kiếp Người; con chó ấy, nay là Sa Di Quân Đề này.

Do lời hủy báng Thánh Hiền phải đọa lạc vào đường ác, nhưng vì ăn năn sám hối và phát nguyện nên được gặp Thánh thiện nhân là Tỳ kheo Xá Lợi Phất, thoát kiếp Chó làm Người, được gặp Ta và giải thoát mau chóng như thế.

LỜI BÀN:

Đọc xong Kinh nói về Sa Di Quân Đề, chúng ta thấy có một điểm cần nêu ra, đó là khi người cha của Quân Đề đến xin đức Phật chấp nhận cho Quân đề được theo Phật học đạo, liền được Ngài hoan hỷ chấp thuận ngay, và đức Phật nói: “Hay thay, hay thay Sa Di”. Liền lúc đó tóc của Quân Đề rụng hết, đây là một việc lạ, khó tin, vì trái với khoa học; còn nếu chúng ta tin được thì khoa học không thể giải thích nổi. Cũng có rất nhiều điều khoa học không thể giải thích được như Tam Minh, Ngũ Nhãn, Lục Thông của chư vị đắc đạo, làm sao khoa học chứng minh?

Xuyên qua hai bài Kinh trên, chúng ta thấy sự hủy báng bậc Thánh Hiền quả là cần phải để ý đề phòng cẩn thận, vì lời nói ác mà phải chịu tội vô cùng nặng nề như thế; bởi vậy, chúng ta không nên coi nhẹ lời nói, mà phải hết sức thận trọng trong việc nói năng sao cho phải đạo.

Toàn Không


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 5958)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6112)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4585)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8350)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5777)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5883)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17652)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5043)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5686)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8737)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567