Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con đường

25/08/201115:35(Xem: 5504)
  • Tác giả :
Con đường
Buddha_16
BÀI 1 – CON ĐƯỜNG
Người viết: Kan

Con kính đảnh lễ Đức Thế Tôn đã truyền dạy con đường tới giác ngộ;
Con kính đảnh lễ các bậc trí nhiều thế hệ trong nhà Phật đã bảo tồn những lời dạy của Đức Phật đến hôm nay, để con được có duyên tiếp cận;
Con kính đảnh lễ các học giả nhiều thế hệ đã nghiên cứu khách quan về những gì liên quan tới đạo Phật, để hôm nay con được có duyên biết tới một số vấn đề trong nhà Phật một cách khách quan;
Con kính đảnh lễ những vị đồng đạo, do nhiều nhân duyên đã giúp con thấy được nhiều điều trước kia con chưa thấy.

Nhập đề

Có điều gì cơ bản để nói về Đức Phật, bậc giác ngộ? Đối với người viết, Ngài là một con người thực tiễn. Sinh ra và trưởng thành trong một môi trường tiện nghi, có thể nói Ngài không thiếu thứ gì phục vụ cho mình, hay nói cách khác là cho một cái Ngã (của mình), quan niệm phổ biến ở Ấn Độ bấy giờ. Vậy, Ngài đã trải nghiệm hướng tới Hữu Ngã, nhưng Ngài không thỏa mãn với một đời sống Hữu Ngã như vậy.

Rồi Ngài lên đường làm một du sĩ. Thấy cái nguy hiểm của Hữu Ngã, Ngài đã thực hành tu khổ hạnh trong sáu năm để hướng tới Vô Ngã. Ngài đã trải nghiệm hướng tới Vô Ngã, nhưng Ngài không thỏa mãn với một đời sống Vô Ngã như vậy, nên Ngài từ bỏ khổ hạnh. Sau khi từ bỏ khổ hạnh, Ngài thành tựu giác ngộ.

Như vậy, Ngài đã thành tựu giác ngộ từ khi sống không Hữu Ngã cũng không Vô Ngã, hay nói đúng hơn, Ngài không dính mắc vào bất cứ điều gì liên quan tới Hữu Ngã – Vô Ngã. Con đường không dính mắc, đó chính là Trung Đạo. Nên ta không ngạc nhiên khi Trung Đạo chính là điều đầu tiên được Đức Phật dạy cho chúng ta.

Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.

1) VÔ NGÃ HAY HỮU NGÃ?

Giới Phật tử ngày nay phần lớn cho rằng Đức Phật khẳng định con người là Vô Ngã. Còn một số vị băn khoăn không biết thực sự Ngài có khẳng định về Vô Ngã hay không? Bởi trong kinh điển vẫn còn lưu nhiều dấu vết cho thấy Ngài không trả lời rõ ràng về điều đó.

Vậy câu trả lời thực sự là gì?

Ta hãy xét một ví dụ. Người A cầm một cục đá và hỏi người B:

1)A: Cục đá này là đực?

B: Không phải!

2)A: Vậy nó là cái?

B: Không phải!

3)A: Vậy nó vừa là đực vừa là cái?

B : Không phải!

4)A: Vậy nó không là đực (phi đực) cũng không là cái (phi cái)?

B: Không phải!

A: Không thể như thế được! Không thể có một cục đá không là đực; không là cái; không vừa đực vừa cái; không phi đực cũng không phi cái được!

Và A quyết định tiếp tục đi tìm câu trả lời cho tính chất đực – cái (hoặc phi đực – cái) của cục đá. Ta dễ nhận thấy A đang hoài công theo đuổi một điều phù phiếm, không có ích lợi gì cho cuộc sống của chính A.

Ở đây, ta thấy rằng nếu người A nhất định cho rằng cục đá phải có (hoặc không có) tính chất đực – cái theo một mức độ nào đó, thì A không thể hiểu được câu trả lời của B. Ta thấy rằng A đã tưởng tượng ra một tính chất đực – cái (hoặc phi đực – cái ) cho cục đá, và bị mắc kẹt trong tà kiến đó.

Câu chuyện trở nên tương tự trong nhà Phật khi ta thay thế:

Cục đá = con người;

Đực = Hữu Ngã;

Cái = Vô Ngã;

1)A: Con người là Hữu Ngã?

B : Không phải!

2)A: Con người là Vô Ngã?

B: Không phải!

3)A: Con người vừa Hữu Ngã vừa Vô Ngã?

B: Không phải!

4)A: Con người không Hữu Ngã cũng không Vô Ngã?

B: Không phải!

B ở đây chính là Buddha, Đức Phật của chúng ta. Và câu trả lời của Ngài chính là con đường Trung Đạo.

Người A nếu nghe được câu trả lời của Đức Phật, và từ bỏ được bất cứ tà kiến nào liên quan tới Hữu Ngã – Vô Ngã, vị ấy sẽ không còn dính mắc, không chấp thủ vào nó nữa; vị ấy đang đi trên con đường hướng tới giác ngộ.

Ngược lại, nếu vị ấy vẫn còn dính mắc vào tà kiến Hữu Ngã – Vô Ngã đó, vị ấy chưa thể giác ngộ.

2) THƯỜNG CÒN HAY VÔ THƯỜNG?

2.1) Người A già hay trẻ?

Ta hãy xét một ví dụ. Hãy hỏi về một người A bất kì.

1)A già (phải không)?

2)A trẻ (phải không)?

3)A vừa già vừa trẻ (phải không)?

4)A không già cũng không trẻ (phải không)?

Ở đây, ta thấy rằng bốn câu hỏi này đều không có câu trả lời, nếu chỉ xét riêng một mình A. Phải có ít nhất một đối tượng khác, là một người B khác để so sánh.

Nếu có 1 người B khác để so sánh, thì ta trả lời được câu 1, 2, 4. VD:

- B lớn tuổi hơn A thì: 1) Không. 2) Đúng.

- B bằng tuổi A thì: 4) Đúng.

Nếu có 2 người C, D để so sánh với A thì ta trả lời được câu 1, 2, 3, 4.

2.2) Vũ trụ thường còn hay vô thường?

Bây giờ, ở ví dụ trong phần 2.1 ta hãy thay:

A = vũ trụ.

Già = thường còn.

Trẻ = vô thường.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1) Vũ trụ thường còn?

2) Vũ trụ vô thường?

3) Vũ trụ vừa thường còn vừa vô thường?

4) Vũ trụ không thường còn cũng không vô thường?

Đây chính là bốn câu hỏi các du sĩ ngày trước hay hỏi Đức Phật. Ta cũng biết rằng Đức Phật giữ im lặng trước bốn câu hỏi này. Bây giờ ta đã hiểu lí do vì sao. Vì vũ trụ bao trùm tất cả. Không thể có một đối tượng tương đương với nó để so sánh, nên bốn câu hỏi kia không có câu trả lời. Đức Phật gọi loại câu hỏi như vậy là phù phiếm, là hí luận.

Như ví dụ ở phần 1, bốn câu hỏi này có thể trả lời được nếu có một đối tượng để so sánh với vũ trụ. Ta hãy giả định có ít nhất 2 vũ trụ, A và B tách biệt nhau để so sánh. Tuy nhiên, nếu công nhận có 2 vũ trụ A và B tách biệt nhau thì lập tức xuất hiện nhiều nan đề khác:

- Cái X1 gì nằm giữa A và B để chúng tách biệt nhau?

- Cái X2 gì nằm giữa A và X1?

- Cái X3 gì nằm giữa A và X2?

..........................

- Cái X1001 gì nằm giữa A và X1000?

..........................

Ta thấy, từ một hí luận sẽ tạo ra vô số hí luận khác. Và đúng như Đức Phật đã răn dạy trong ví dụ mũi tên độc, chắc chắn chúng ta sẽ chết trước khi có câu trả lời cho chuỗi hí luận vô tận như vậy.

2.3) Như Lai tồn tại hay phi tồn tại?

Bây giờ, ở ví dụ trong phần 2.1 ta hãy thay:

A = Như Lai.

Già = tồn tại.

Trẻ = phi tồn tại.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1)Như Lai tồn tại?

2)Như Lai phi tồn tại?

3)Như Lai vừa tồn tại vừa phi tồn tại?

4)Như Lai không tồn tại cũng không phi tồn tại?

Ta đã biết, để trả lời được bốn câu hỏi trên cần phải có ít nhất một đối tượng để so sánh với Như Lai. Có thể so sánh được hay không?

Ta biết Như Lai, bậc thành tựu giác ngộ, không dính mắc bất cứ điều gì, không tranh luận hơn thua, không so sánh với bất cứ ai trên đời. Vậy làm sao ta có thể gán một đối tượng nào đó để so sánh với Như Lai? Nếu ai muốn làm công việc đó, họ cứ làm, còn bậc Như Lai như đã biết, chỉ giữ im lặng trước những so sánh như vậy.

2.4) Vô tưởng phi vô tưởng xứ có tồn tại?

(người viết thay cụm “phi tưởng phi phi tưởng xứ” quen thuộc bằng cụm “vô tưởng phi vô tưởng xứ” cho khỏi rối rắm về từ ngữ - Kan).

Bây giờ, ở ví dụ trong phần 2.1 ta thay:

A = tưởng xứ.

B = tồn tại.

C = phi tồn tại.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1)Tưởng xứ tồn tại?

2)Tưởng xứ phi tồn tại?

3)Tưởng xứ vừa tồn tại vừa phi tồn tại?

4)Tưởng xứ phi tồn tại cũng không phi tồn tại? = Vô tưởng phi vô tưởng xứ có tồn tại?

Ta đã biết, để trả lời được bốn câu hỏi này, cần có ít nhất một đối tượng để so sánh với tưởng xứ. Hãy giả định rằng có một xứ B tách biệt với tưởng xứ để so sánh. Nhưng giả định này làm nảy sinh vấn đề giống hệt phần 2.2 về vũ trụ.

- Cái X1 gì nằm giữa B và tưởng xứ để chúng tách biệt nhau?

- Cái X2 gì nằm giữa X1 và tưởng xứ?

- Cái X3 gì nằm giữa X2 và tưởng xứ?

……………………..

Như vậy, ta lại rơi vào một chuỗi hí luận vô tận, và ta sẽ chết trước khi giải đáp được câu hỏi “Vô tưởng phi vô tưởng xứ có tồn tại”?

2.5) Vô sở hữu xứ có tồn tại?

Bây giờ, ở ví dụ trong phần 2.1 ta thay:

A = Vô sở hữu xứ.

Già = tồn tại.

Trẻ = phi tồn tại.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1)Vô sở hữu xứ tồn tại?

2)Vô sở hữu xứ phi tồn tại?

3)Vô sở hữu xứ vừa tồn tại vừa phi tồn tại?

4)Vô sở hữu xứ không tồn tại cũng không phi tồn tại?

Lập luận tương tự như phần 2.2, ta đi tới kết luận ta sẽ chết trước khi trả lời được bốn câu hỏi về sự tồn tại của Vô sở hữu xứ.

2.6) Thức vô biên xứ có tồn tại?

Lập luận tương tự như phần 2.2, ta đi tới kết luận ta sẽ chết trước khi trả lời được bốn câu hỏi về sự tồn tại của Thức vô biên xứ.

2.7) Không vô biên xứ có tồn tại?

Lập luận tương tự như phần 2.2, ta đi tới kết luận ta sẽ chết trước khi trả lời được bốn câu hỏi về sự tồn tại của Không vô biên xứ.

2.8) Kết luận

Vừa rồi, ta đã nêu lần lượt bảy vấn đề hí luận phù phiếm mà ta đã thấy, chúng ta sẽ chết trước khi có câu trả lời cho chúng. Ta cần mạnh mẽ từ bỏ những hí luận như vậy.

Đặc biệt, từ phần 2.4 đến phần 2.7, ta đã thấy tính chất phù phiếm của bốn xứ tương ứng với bốn loại thiền vô sắc trong kinh điển chữ Pali và A Hàm chữ Hán. Chúng ta cần dứt khoát loại bỏ chúng ra khỏi kinh điển.

3) VÔ NGÃ TỐT HAY XẤU?

Bây giờ, ở ví dụ 2.1 ta thay:

A = Vô Ngã.

Già = tốt.

Trẻ = xấu.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1)Vô Ngã là tốt?

2)Vô Ngã là xấu?

3)Vô Ngã vừa tốt vừa xấu?

4)Vô Ngã không tốt không xấu?

Ta đã biết, để trả lời được bốn câu hỏi này cần có ít nhất một đối tượng X để so sánh.

- Nếu X là một người ưa thích Hữu Ngã, X trả lời “Không” cho câu 1.

- Nếu X là một người ưa thích Vô Ngã, X trả lời “Không” cho câu 2.

- Nếu X là một người bị chao đảo giữa hai cực Hữu Ngã – Vô Ngã, X không trả lời được bất kì câu hỏi nào.

- Nếu X là một bậc giác ngộ, X trả lời “Không” cho tất cả bốn câu hỏi. Vì X bây giờ không còn là đối tượng để so sánh với Vô Ngã nữa, vì vị ấy không bám víu vào bất cứ điều gì.

Bây giờ, nếu ta thay X = Đức Phật, thì xảy ra bốn tình huống như sau:

- Nếu người A ưa thích Hữu Ngã, Đức Phật trả lời “Không” cho câu số 2.

- Nếu người A ưa thích Vô Ngã, Đức Phật trả lời “Không” cho câu số 1.

- Nếu người A bị chao đảo giữa hai cực Hữu Ngã – Vô Ngã, Đức Phật không trả lời câu hỏi nào. Mộ ví dụ điển hình là trường hợp du sĩ Vacchagotta được lưu lại trong kinh điển.

- Nếu người A đã hiểu được sự phù phiếm của những hí luận như vậy, vị ấy từ bỏ tất cả những gì liên quan đến Hữu Ngã – Vô Ngã, vị ấy không thắc mắc, không đặt bốn câu hỏi cho Đức Phật, và Đức Phật không cần phải trả lời. Vị ấy đang đi trên con đường hướng tới giác ngộ.

Vậy, ta hiểu Đức Phật là một thầy thuốc đầy thực tiễn. Ngài tùy người tùy bệnh mà cho thuốc, chứ Ngài không tạo ra một thứ thuốc vạn năng cho mọi loại bệnh mọi loại người.

4) CUỘC SỐNG LÀ KHỔ HAY VUI?

Bây giờ, ở ví dụ 2.1 ta thay:

A = cuộc sống.

Già = khổ.

Trẻ = vui.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1)Cuộc sống là khổ?

2)Cuộc sống là vui?

3)Cuộc sống vừa khổ vừa vui?

4)Cuộc sống không khổ cũng không vui?

Ta đã biết, để trả lời được bốn câu hỏi này, ta cần một đối tượng X để so sánh.

- Nếu X ưa hưởng thụ, X trả lời “Không” cho câu 1. X ở đây là những người chủ trương chạy theo vật chất, hoặc chủ trương đoạn diệt, cho rằng chết là hết, và như vậy phải hưởng thụ tối đa trong đời sống hiện tại.

- Nếu X ghét hưởng thụ, X trả lời “Không” cho câu 2. X ở đây là những người chủ trương khổ hạnh hành xác, hoặc chủ trương rằng thế giới này chỉ toàn khổ ải và mong cầu được đến một cõi khác không còn khổ, chỉ toàn vui.

- Nếu X bị chao đảo giữa khổ và vui, X không trả lời được bất cứ câu nào. X ở đây là hầu hết loài người. Đây là vấn đề lớn nhất của phần lớn mọi người. Họ chao đảo giữa khổ và vui: lúc khổ nhiều vui ít; lúc khổ ít vui nhiều; lúc khổ vui như nhau; lúc khổ rồi sau đó vui; lúc vui rồi sau đó khổ v.v.

- Nếu X không còn dính mắc bởi bất cứ điều gì liên quan đến khổ - vui, vị ấy trả lời “Không” cho cả bốn câu hỏi. Vị ấy đang trên con đường hướng tới giác ngộ.

5) CÁC DHAMMA (PHÁP) LÀ CÓ THỰC HAY PHI THỰC?

(chữ dhamma ở đây theo nghĩa được dùng trong các bộ Abhidhamma của bất cứ bộ phái nào – Kan)

Bây giờ, ở ví dụ 2.1 ta thay:

A = dhamma

Già = có thực.

Trẻ = phi thực.

Như vậy, bốn câu hỏi trở nên như sau:

1)Các dhamma là có thực?

2)Các dhamma là phi thực?

3)Các dhamma vừa thực vừa phi thực?

4)Các dhamma không thực cũng không phi thực?

Ta đã biết, để trả lời được câu hỏi trên ta cần một đối tượng X để so sánh.

- Nếu X là người không theo đạo Phật, hoặc X là Phật tử thuộc các bộ phái phản đối Abhidhamma, hoặc X không thích Abhidhamma v.v. thì X trả lời “Không” cho câu 1.

- Nếu X là Phật tử thuộc các bộ phái tôn sùng Abhidhamma, hoặc X ưa thích Abhidhamma v.v. thì X trả lời “Không” cho câu 2.

- Nếu X là Phật tử nhưng không tự mình suy xét được giá trị của Abhidhamma mà phải dựa vào kiến giải của hai nhóm vừa kể trên, thì X bị chao đảo giữa hai cực có thực – phi thực của dhamma. X không thể trả lời được bất cứ câu hỏi nào.

- Nếu X không dính mắc vào bất cứ dhamma nào trong Abhidhamma, không dính mắc vào bất cứ Abhidhamma thuộc một bộ phái riêng biệt nào, vị ấy trả lời “Không” cho tất cả bốn câu hỏi. Vị ấy đang trên đường hướng tới giác ngộ.

Hết

Người viết: Kan

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/01/2015(Xem: 6557)
Duy thức giảng về vấn đề gì? Tư tưởng trọng tâm của duy thức là cải tạo tâm địa. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ ra hết cả thế gian; năm ấm cũng từ tâm sanh, tâm tạo ra tất cả pháp”. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm nhiễm thì thế giới nhiễm, tâm tịnh thì thế giới tịnh”. Nếu tâm chúng ta tham, sân, si quá nặng thì hình thành hiện tượng nhiễm ô, tâm chúng ta thanh tịnh, nội tâm thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh, tâm hiền lành thì có thể hình thành hiện thực thế giới thanh tịnh hòa bình. Duy thức học chính là thuyết minh nguyên lý này: “Ba cõi do tâm tạo, vạn pháp do thức sanh”.
22/01/2015(Xem: 10015)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy? Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong nhiệt thành của hành giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.
08/01/2015(Xem: 7730)
Nguyện con đến lúc sắp lâm chung Diệt trừ tất cả các chướng ngại Tận mặt gặp Phật A Di Đà Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.
07/01/2015(Xem: 8593)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
25/12/2014(Xem: 8002)
Là phật tử không gì quý hơn, vui hơn, an lạc hơn, giải thoát hơn được học hiểu chút chút các kinh đại thừa liễu nghĩa của Đức Phật dạy. Quy y Tam Bảo, tụng kinh nghe kinh, nghe thuyết pháp, đi chùa hơn 37 năm mà không biết kinh Phật dạy có 2 loại : kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa.
01/12/2014(Xem: 11090)
Nguyên gốc tác phẩm này là của Genro, một Thiền sư thuộc tông Tào động Nhật Bản, viết và xuất bản năm 1783. Mỗi câu chuyện là một công án mà tác giả đã có lời bình và kệ đi kèm. Fugai, người thừa kế Genro, thêm nhận xét của sư, câu đối câu, vào sách của thầy. Tôi sẽ dịch các câu chyện hay tắc, gồm cả lời bình của Genro và nhận xét của Fugai trong hầu hết các câu chuyện để tham khảo. Có khi gặp bài kệ cũng dịch để khuyến khích học tập.
19/11/2014(Xem: 14552)
Ngài pháp sư Tịnh Không, một cao tăng đương thời có nói: "Kinh Phật muôn đời vẫn mới mẻ, thích ứng với mọi thời đại. Từ ba ngàn năm trước, những kinh điển được giảng tại Ấn Độ khiến cho người Ấn Độ thời ấy được thọ dụng. Ba ngàn năm sau, đối với những kinh điển ấy, chúng sinh ngày nay vẫn được thọ dụng y hệt chẳng khác biệt gì. Nhưng vì hình thái ý thức, bối cảnh văn hóa, cũng như hoàn cảnh sống xưa nay rất khác nên cần phải có giải thích lại, nghĩa là hiện đại hóa địa phương hóa kinh Phật để thích ứng căn cơ đương thời."
08/11/2014(Xem: 14653)
Trong những pháp môn Phật dạy, tôi cả đời chuyên tâm nơi pháp môn Trì danh niệm Phật. Pháp tu niệm Phật có nhiều, trì niệm danh hiệu Phật là một trong những pháp niệm Phật. Đây là pháp môn dễ tu, dễ thực hành nhất, dễ thành tựu. Về chỗ thành tựu cũng như chỗ đạt được rất rõ ràng từng bước, từng nấc tiến, có thể diễn nói, có thể khắc nghĩa.
07/11/2014(Xem: 10934)
Tôi có một người bạn cùng tu tịnh nghiệp. Ngoài việc làm Phật sự tại các chùa, thường hay niệm Phật cầu sinh Cực Lạc. Bạn tôi rất thích đọc kinh và nghe Pháp, nên tôi cứ nghĩ là anh đã thông hiểu pháp môn Tịnh Độ. Nhưng không dè, trước lúc trút hơi thở cuối cùng, bạn tôi lại lo lắng than, chưa đạt nhất tâm và sợ sẽ không được vãng sinh Cực Lạc! Là tín đồ Tịnh Độ mà khi chết lại hồ đồ như thế thì thực là đáng tiếc!
29/10/2014(Xem: 7285)
Loài người chúng ta nhờ vào sáu giác quan mà có sự hiểu biết. Nhưng có rất ít người nhận ra rằng sự nhận biết của sáu giác quan chỉ giống như con gà con hình thành trong vỏ trứng. Tuy nhiên đủ sức mổ được vỏ trứng vỡ ra để thấy được cảnh giới bên ngoài thì rất ít, mà hầu hết bị chết trong vỏ trứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567