Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiếu Phụ Cuồng Điên

22/09/201208:54(Xem: 4405)
Thiếu Phụ Cuồng Điên

me_mum1
THIẾU PHỤ CUỒNG ĐIÊN

Toàn Không

Khi đức Phật du hóa tại nước Di-hy-La, Ngài ngụ trong vườn Am-La. Bấy giờ có thiếu phụ tên là Bà-tứ-Tra có năm người con chết liên tiếp trong mấy năm. Vì qúa nhớ thương buồn rầu, nên khi đứa con thứ năm vừa chết xong, bà phát điên, xõa tóc, xé rách hết quần áo, chạy rong cùng đường kêu la, khi cười khi khóc, lúc nói lảm nhảm một mình.

Một hôm, bà chạy vào vườn Am-La trong lúc đức Phật đang thuyết pháp cho đại-chúng nghe, thiếu phụ điên cuồng chạy vào, vừa trông thấy đức Phật tự nhiên tỉnh lại, bà xấu hổ, khép nép ngồi xuống. Khi ấy đức Phật bảo Thị-giả A-Nan-Đà lấy áo Uất-đa-La của Phật đem cho bà và khiến bà khoác vào, Tôn-giả A-Nan-Đà vâng lời Phật lấy áo đưa cho bà, bà được áo, mặc xong, liền đến trước đức Phật cúi đầu lễ, rồi lui ra ngồi một bên.

Bấy giờ, đức Phật thuyết pháp cho bà nghe, khai thị, chỉ giáo, soi sáng và làm cho vui vẻ. Như thường lệ, đức Phật thuyết pháp theo thứ lớp cho đến khi tín tâm thanh tịnh, thọ tam quy, bà làm lễ xong vui vẻ tỉnh táo ra về.

Một năm sau, đứa con thứ sáu của bà bị bệnh và lăn ra chết! Nhưng lần này bà không ưu sầu phiền não, không còn kêu la khóc lóc, người chồng thấy thế ngạc nhiên hỏi bà:

- Những đứa con chết trước, bà thương nhớ các con nên kêu khóc, than Trời trách Đất ngày đêm, bà bỏ ăn bỏ ngủ, cho đến đứa thứ năm sau khi chết, bà phát cuồng điên, xé rách quần áo, chạy rông kêu la ngoài đường. Nay đứa con thứ sáu chết, bà không kêu la khóc than, không tỏ ra buồn khổ, tại sao vậy?

Bà vợ trả lời:

- Nếu kể từ vô thủy đến giờ, nghĩa là trăm nghìn vạn đời từ trước đến ngày nay, thì tôi có vô số con cháu, không sao tính hết được; nay tôi đã ra khỏi sự sống chết mất còn con cháu, nên không còn sầu khổ nữa.

Chồng bà khen:

- Bà đã được nghe ai nói Pháp ấy ở đâu? tôi chưa từng được nghe nói như thế bao giờ.

- Trong vườn Am-La có đấng Chính-Giác, Ngài là Phật tại thế; Ngài diễn nói tất cả khổ, nguyên nhân đưa đến khổ, làm thế nào diệt trừ khổ, và con đường dẫn đến đạo. Ngài dạy Bát Chính Đạo (Chính Kiến, Chính Tư duy, Chánh Ngữ, Chính Nghiệp, Chính Niệm, và Chính Định), tức là tám con đường Hiền-thánh diệt tất cả khổ, an ổn đến Niết-Bàn. Ngài là vị cứu tinh của tôi, là thầy tôi, tôi rất ưa thích giáo-pháp của Ngài, do đó tôi đã buông bỏ ý nghĩ nhớ con sầu khổ vô ích.

- Tôi cũng sẽ đến đó để được Ngài dạy tôi bỏ ưu phiền khổ não.

Bấy giờ chồng bà Bà-tứ-Tra tên Túc-xá-Đế, liền vội vã lên xe ngựa đến vườn Am-La. Ông vừa thấy Phật, lòng tin vui tăng lên, đi đến trước Phật cúi đầu đảnh lễ. Khi ấy đức Phật nói kệ khai mở pháp-nhãn cho ông, rồi nói Tứ Diệu-Đếvề khổ, khổ tập, diệt khổ, và con đường tiến đến đạo; nghe rồi, ông Túc-xá-Đế liền thấy pháp, và thành tựu quán sát pháp.

Sau khi hiểu pháp, ông xin xuất gia, được đức Phật chấp nhận xuất gia rồi, một mình ông ở chỗ yên tĩnh tư duy thiền định; Đức Phật đã nói trước, thọ ký cho ông là đêm thứ ba ông sẽ đắc Tam-Minh[gồm: Túc-Mạng-Minh(Biết các tiền kiếp của mình và của các chúng-sanh), Sinh-Tử-Minh(Biết rõ chúng-sanh chết nghiệp gì, sinh quả nào), Lậu-Tận-Minh(Biết rõ ô nhiễm của mình chấm dứt như thế nào)], thì đúng đêm thứ ba ông đắc Tam-Minh. Sau khi đắc Tam-Minh rồi, đức Phật bảo người đánh xe đem xe về nhà, và báo cho vợ ông hay. Người đánh xe vâng lời Phật dong xe về, bà vợ thấy người đánh xe, liền hỏi:

- Ông chủ có được gặp đức Phật không, Đức Phật có vì ông chủ thuyết pháp khai thị không, và ông chủ hiện giờ ở đâu?

- Dạ, ông chủ đã được gặp Phật, và đã có lòng tin thanh tịnh; Ông chủ đã tôn kính Phật làm thầy, và được Phật khai mở Pháp-Nhãn. Ông chủ còn được Phật dạy bốn Diệu-Đế, và thành tựu quán sát pháp. Sau khi biết pháp, ông chủ liền xuất gia, và chuyên cần tinh tấn tư duy thiền định; hiện nay, ông chủ đã đắc Tam-Minh, và đức Phật sai con về đây nói với Bà như thế.

Bà vợ nghe xong, trong lòng vô cùng phấn khởi, vui vẻ nói với người đánh xe:

- Cho ngươi ngựa, xe với một trăm nghìn tiền bạc để làm vốn mà sinh sống, rồi ngươi hãy đi truyền tin tức này, nói rằng: “Bà-la-Môn Túc-xá-Đế đã theo Phật tu hành và chỉ sau ba ngày đã chứng Tam-Minh, khiến lòng bà vợ là Bà-tứ-Tra vô cùng sung sướng”.

Người đánh xe đáp:

- Con bây giờ đâu cần xe ngựa tiền bạc làm gì ? Xin trả lại cho bà, vì con sẽ xin đi theo ông chủ, xin Phật cho xuất gia tu đạo.

- Hay thay ! Ý Ngươi như thế rất đúng, hãy mau trở lại chỗ Phật để theo ông chủ xuất gia; không bao lâu nữa, chắc cũng đầy đủ Tam-Minh như ông chủ.

- Đúng thế, ông chủ xuất gia, con cũng muốn xuất gia như thế.

- Ông chủ xuất gia, ngươi cũng xuất gia theo, chắc chẳng bao lâu nữa, ta cũng xuất gia theo. Giống như con rồng lớn nương hư không mà bay đi, những con rồng khác, rồng nam, rồng nữ thảy đều bay theo. Ta cũng như thế, sẽ mang bình bát, mặc áo Cà-Sa, sống đời giản dị.

- Ý bà như vậy, ắt sẽ thành tựu, không bao lâu nữa sẽ thấy bà ít muốn, biết đủ, cạo tóc, mặc áo Cà-Sa, mang bình bát đi đến từng nhà khất thực mà ăn. Đối với năm ấm(tham, sân, hôn trầm, phóng dật, nghi ngờ, hoặc có thể là Sắc, thọ, tưởng, hành, thức), sáu giới(Bố thí, nhân nhục, trì giới, tinh tấn, thiền định, trí huệ, hoặc có thể là đất, nước, gió, lửa, hư không, và thức) đoạn trừ ái dục, xa lià sự trói buộc của tham, và dứt hết phiền não. Đó là những lời Phật giảng cho ông chủ mà con được nghe.

Chẳng bao lâu sau, ông Túc-xá-Đế, người đánh xe, bà Bà-tứ-Tra, và cô con gái Bà-lê-Tôn-Đà, bốn người nối tiếp xuất gia theo Phật tu hành, và giải thoát hết khổ. Về sau tất cả đều đắc qủa Thánh..,.

Toàn Không

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/09/2011(Xem: 3983)
Chữ “nhẫn” trong chữ Hán được viết như sau: 刃 (nhận) +心 (tâm) = 忍 Chữ 刃 (nhận) nghĩa là sự nguy hiểm, mũi nhọn, chém giết Chữ 心 nghĩa “tim”, chữ tâm được dùng rất phổ biến như tâm cảnh心境, tâm địa心地 nghiên cứu về hiện tượng ý thức gọi là tâm lý học 心理學, Phật học thì thượng gọi vạn pháp duy nhất tâm, gọi tắc duy tâm 唯心
22/09/2011(Xem: 4435)
Chúng sanh tạo tác ác nghiệp, đó là cội gốc chân thật của bệnh khổ. Bởi vì Phật, Bồ Tát, A La Hán không tạo ác nghiệp, cho nên các Ngài không bệnh. Đạo lý chính ngay chỗ này. Nếu Phật Bồ Tát bị bệnh thì đó là thị hiện, đó là hoằng pháp. Ví dụ như bệnh của Ngài Duy Ma Cật là hoằng pháp lợi sanh, không phải Ngài bệnh thật, Ngài không thể bị bệnh, Ngài không có lý do gì để bị bệnh.
15/09/2011(Xem: 4351)
Tự nhận rằng, là người của công việc, hay đi lại đó đây, ngay cả trong mùa an cư, do đó với riêng tôi, việc thực hiện đúng thời khóa công phu theo phương thức truyền thống là điều bất khả! Mặc dù vậy, tự trong sâu thẳm của lòng mình, mong mỏi được đọc tụng toàn bộ kinh tạng trong mùa an cư dường như là một sở nguyện đã manh nha từ lâu...
14/09/2011(Xem: 4904)
Hạnh phúc và khổ đau lưu xuất từ những hành động quá khứ của chúng ta. Để định nghĩa nghiệp (karma) trong vài chữ, người ta có thể nói: hãy làm tốt, tất cả sẽ tốt; nếu làm xấu, tất cả sẽ xấu. Karma - nghiệp - có nghĩa là "hành động". Nó hoạt động theo ba mặt: thân, lời, và ý. Nó sản sinh ra ba loại hậu quả: xấu, không xấu và trung tính, và diễn ra trong hai thời: trước tiên người ta nghĩ đến điều sắp làm, đó là hành động ý định, rồi những động lực tâm thức hiện thực thành một hành vi thân xác hay lời nói, đó là hành động cố ý.
13/09/2011(Xem: 4566)
Đức Phật tại thế, mọi người được sống hạnh phúc bên cạnh bậc đại Đạo sư minh triết tuyệt vời, cho nên không cần đặt ra vấn đề tìm hiểu về Phật. Nhưng khi Phật nhập Niết bàn, mọi người đều có chung suy nghĩ rằng cần góp nhặt lời Phật dạy để truyền cho nhau tu hành. Trong lần kiết tập đầu tiên, dĩ nhiên không thể trùng tuyên đầy đủ lời Phật dạy, cũng như không được mọi người tán thành hoàn toàn. Thật vậy, những chứng nhân quan trọng đã từng trực tiếp nghe Phật thuyết pháp như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên đã nhập Niết bàn. Ngoài ra, lịch sử cũng ghi rõ đại đệ tử thuyết pháp bậc nhất Phú Lâu Na và 500 Tỳ kheo không đồng ý với những gì được kiết tập. Họ đã đến hang động khác để trùng tuyên lại.
02/09/2011(Xem: 6601)
Khoa học là sự hiểu biết về thế giới hiệntượng bên ngoài và các ứng dụng của sự hiểu biết ấy. Đấy là cách định nghĩa củakhoa học ngày nay. Thế nhưng cũng có một lãnh vực hiểu biết khác, thiết lập trênnguyên tắc tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu khác, đặc biệt liên hệ đên cáchiện tượng bên trong (tức nội tâm), và được ứng dụng vàocác hiện tượng như tri thức hay tâm thức chẳng hạn... Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
30/08/2011(Xem: 5512)
Đạo Phật nguyên thủy là Đạo Phật được dạy bởi Đức Phật Gautama và giáo pháp của ngài hiện vẫn còn được lưu giữ lại trong tam tạng kinh điển hệ Pali (Nikaya). Dù rằng trong thực tế đa số người tìm đến Đạo Phật chỉ như một nhu cầu tín ngưỡng, vẫn có một số ít cá thể thực sự tìm đến với Đạo Phật với lòng khao khát giải thoát. Trong trường hợp này, người tìm đến Đạo Phật với lòng khao khát giải thoát rất cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa Đạo Phật “nguyên thủy” và các Đạo Phật không phải là “nguyên thủy”, giữa Chánh pháp và Phi pháp.
25/08/2011(Xem: 7315)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự Thật – Tương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
25/08/2011(Xem: 6248)
Người Phật tử ngày nay, nếu có một tiêu chuẩn nào cần nhớ và suy xét kĩ lưỡng trên bước đường tu học của mình, thì có lẽ đó là Trung Đạo.
22/08/2011(Xem: 7128)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫn và trí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]