Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lí Tính Duyên Khởi trong Tụng mở đầu Trung luận

17/12/201123:13(Xem: 4027)
Lí Tính Duyên Khởi trong Tụng mở đầu Trung luận
hoa_sen (9)
LÍ TÍNH DUYÊN KHỞI
trong Tụng mở đầu Trung luận
Đặng Hữu Phúc

Ngài Long Thọ mở đầu Trung Luận bằng một bài tụng kính lễ Đức Phật giảng lí tính duyên khởi và tịch lạc của niết bàn.

Dưới đây là bài tụng mở đầu, trích từ Trung luận. Thanh Mục thích”, Cưu ma-la-thập (344 - 413) dịch Phạn-Hán, và Thích Thiện Siêu (2001) dịch Hán - Việt:

Chẳng sinh cũng chẳng diệt
Chẳng thường cũng chẳng đoạn
Chẳng một cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi
Nói lên được pháp nhân duyên ấy
Khéo diệt trừ các thứ hý luận
Tôi cúi đầu kính lễ Phật, đã thuyết,
Nhân duyên cao nhất trong các thuyết.

Ngài Thanh-Mục viết: “Với hai bài kệ tán thán Phật này là đã nói tóm tắt Đệ Nhất nghĩa đế”.

Về bài tụng này, do ngài La Thập dịch Phạn-Hán và câu “năng thuyết thị nhân duyên, thiện diệt chư hí luận” trong các bản dịch Việt, Thầy Tuệ Sỹ có giải thích trong “Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy Ma Cật” như sau:

“… Cho nên, mở đầu Trung luận, Long Thọ tôn kính Phật trong ý nghĩa là vị Chính giác đã thiện xảo một cách tuyệt vời tuyên bố lí tính duyên khởi. Mà lí tính duyên khởi ấy vốn không là cái diệt tận, không là sinh khởi; không là gián đoạn, không là thường hằng; không là nhất thể, không là đa thù; không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Chính lí tính duyên khởi ấy là diệu lạc của Niết bàn, là tĩnh chỉ của mọi hí luận”. (23) (Tuệ Sỹ, trang 263)

“Chú thích 23: MK…pratiyasamutpadam prapancopasmam sivam, duyên khởi là sự tĩnh chỉ của hí luận, là diệu lạc (của Niết bàn). Những từ này đồng cách với duyên khởi nên được hiểu là những phẩm định của duyên khởi. Hán dịch của Cưu-ma-la-thập (năng thuyết thị) nhân duyên, thiện diệt chư hí luận. Vì theo ngữ pháp Hán thông thường, trong đó thiện(Skt. sivam: diệu lạc của Niết bàn) được hiểu như là trạng từ, nên câu kệ này thường được dịch Việt là: (đức Phật nói duyên khởi, là để) khéo léodiệt trừ các hí luận”. (Tuệ Sỹ, trang 263)

<< “ Hí luận” là một thuật ngữ Phật học, có trong tụng mở đầu Trung luận, và trong tụng XVIII, 9 (bản dịch La Thập). Phật Quang Đại Tự điển, bản dịch Thích Quảng Độ, ghi “Hí luận: Skt. prapanca. Những lời bàn luận sai lầm, trái với chân lí, không thể làm cho thiện pháp tăng trưởng…Luận Du già sư địa quyển 91 ghi: Những lời nói dẫn đến chỗ tư duy phân biệt một cách vô nghĩa, gọi là hí luận. Vì sao? Vì những lời nói ấy, dù có gắng sức tu hành, cũng không thể làm tăng thêm chút pháp lành nào, mà cũng chẳng thể làm giảm được pháp ác >>. (ĐHP)

Để tìm hiểu ý nghĩa bài tụng này, chúng ta hãy nhớ đến

1. Trung luận chương XXIV, tụng 18, Ngài Long Thọ có giảng:

“Cái gì do duyên khởi
Ta nói là tính không
Tính không là giả danh
Chính nó là trung đạo”
That which is dependent origination
Is explained to be emptiness
That, being dependent designation
Is itself the middle way.
(Trích từ Ocean of Reasoning, trang 503)

2. Ngài Long Thọ cũng giảng trong Hồi tránh luận (Vigrahavyavartani), tụng 71:

“Tôi kính lễ Phật vô thượng
và giảng pháp tối thượng rằng
Tính không, duyên khởi và
Trung đạo cùng một nghĩa”. (71)
I prostrate to the Buddha who is unparalleled, and
Who has given the supreme teaching that
Emptiness, dependent origination and
The middle path have the same meaning.
(Ocean of Reasoning. trang 505)

3. Ngài Long Thọ trong Trung luận VII, 34 cũng giảng: “Như huyễn tượng, như chiêm bao, như thành phố tưởng tượng giữa hư không,

Cũng như thế, những gì xuất hiện, tồn tại và hủy hoại đã được giảng giải”. (34)

“As illusion, as dream, as an imaginary city in the sky,/
so have arising, endurance, and destruction been illustrated”
(Nagarjuna and the Philosophy of Openness. Nancy McCagney, 1997)

4. Về như huyễn, Đức Dalai Lama thứ 14 nói có hai loại như huyễn (illusion: huyễn tượng; như huyễn), một là nói đến tính không theo nghĩa là sự-sự vật-vật hiện hữu nhưng không có cái hiện hữu có tự tính (nên sự-sự vật-vật giống như huyễn tượng), hai là mặc dầu chúng ( = sự-sự vật-vật) chẳng có hiện hữu có tự tính (true or intrinsic existence) chúng phóng chiếu cái hiện tướng của hiện hữu có tự tính .

(Awakening the mind, Lightening the heart”, trang 228-229)

Căn cứ vào các ghi chú trên, nếu nói đơn giản để dễ nhớ, chúng ta có thể nói: Duyên khởi = Tính Không = Trung Đạo = Như Huyễn.

Và chúng ta cũng nên nhớ thêm:

1. Trung đạo là vượt ngoài thường hằng và đoạn diệt. Trung đạo không phải là con đường nằm giữa thường hằng và đoạn diệt.

2. Những gì xuất hiện, tồn tại, rồi hủy hoại đều giống như chiêm bao -- chứ không phải là chiêm bao.

3. Giả danh/ giả thiết (Skt. prajnapti. English: designation; imputation) là danh từ được tạm đặt ra để gọi các pháp do nhân duyên hoà hợp mà có.

4. Pháp / hiện tượng (Skt. dharma. English: phenomena / events) là hiện tượng đối nội / đối ngoại / và hiện tượng trong thiền định.

Đức Dalai Lama thứ 14, trong “The Middle Way” (2009) nói,

1. Nếu chỉ thực hành từ bi hỉ xả và mười nghiệp thiện thì vẫn chưa phải là thực hành phật pháp -- thực hành phật pháp là tu tập đi đến giải thoát.

Ngài cũng dạy-- nền tảng của lí tính Duyên khởi về phương diện hiển hiện (apparent aspect) giúp hữu-tình tích-tập phúc-đức (accumulate merit) và nền tảng của lí tính duyên khởi về phương diện trống thông /chân không diệu viên /chân không diệu hữu (= empty aspect) giúp hữu-tình tích-tập trí-tuệ (accumulate wisdom) (trang 27)

[trống thông = rỗng thông vô tự tính = thông viên = dung thông = vô ngại =chân không diệu viên =chân không diệu hữu ( empty = open = free) -- thế nên có thể tích-tập trí-tuệ ---ĐHP]

2. < Đức Phật khi giảng bốn thánh đế, ngài dạy hai tiến trình nhân quả theo mười hai chi của duyên khởi. Tiến trình thứ nhất thuộc về phương diện phiền não của các hiện tượng, trong khi tiến trình thứ nhì thuộc về phương diện giác ngộ.

Trong tiến trình phiền não, các chi tiến hành theo thứ tự đều đặn từ nguyên nhân tới hiệu quả, với mỗi hiệu quả kế tiếp trở thành nguyên nhân cho hiệu quả kế tiếp, đi tới hậu quả cuối cùng trong sự đau thương của sinh tử tương tục.

Trong tiến trình thuộc về giác ngộ, do bất cứ duyên gì (however), sự chấm dứt của các nguyên nhân dẫn đến sự chấm dứt của các hiệu quả -mở đầu một chi ngừng lại, lúc đó một chi khác ngừng, cho tới hiện hữu sinh tử tương tục đi tới chấm dứt.

Nói một cách khác, thánh đế về khổ và thánh đế về nguyên nhân của khổ giảng về sự trỗi dậy của mười hai chi duyên khởi, trong khi thánh đế về sự chấm dứt của khổ và thánh đế về con đường giải thoát miêu tả sự giải tán của mười hai chi và kết quả của giải thoát (trang 29-30)>.

< Các nguyên nhân và các hiệu quả của phương diện phiền não có căn bản vô minh là gốc rễ, trong khi đó nguyên nhân và hiệu quả giác ngộ tiến hành xuyên qua sự chấm dứt của căn bản vô minh (trang 22)>

3. < Để lí hội thông hiểu chi thứ nhất, căn bản vô minh, trong ý nghĩa vi tế nhất của nó, chúng ta phải nhận ra được và lí hội thông hiểu nó trong trạng thái chấp thủ vào hiện hữu có tự tính của tất cả các hiện tượng-- gồm cả các uẩn, các giới (sense spheres), và tất cả các đối tượng đối ngoại -- và không chỉ thuần những cảm thức của chúng ta về “Tôi”.(trang 67) >

Và chúng ta cũng nhớ đến ngài Tăng Triệu (384-414), trong Triệu Luận, phần Tông Bản Nghĩa cũng giảng:

<< Bổn vô, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa.

Để vạch ra tông chỉ chánh pháp là căn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô, chẳng phải có ý làm thành vô (có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô này nó vượt ngoài cái có và không tương đối).

Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là Duyên Hội.

Vì duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là Tánh Không, vì pháp thể là chơn như biến hiện nên gọi là Pháp Tánh.

Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là Thật Tướng.

Vì bổn vô là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng, pháp tánh, tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …

Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là Tánh Không, bởi vì tánh không nên gọi Pháp Tánh, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là Thật Tướng, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô.>>

(Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, in trong Chư Kinh Tập Yếu, trang 470 - 471) (Chú thích: Bổn Vô là thuật ngữ dịch cũ của Chân như. Phật Quang Đại Từ Điển)

Bây giờ chúng ta tìm hiểu bài tụng mở đầu theo các bản dịch Anh (được dịch từ Phạn sang Anh)

1. Bản dịch Việt (ĐHP), theo bản Anh của K.K. Inada:

Tôi kính lễ Đức Phật
Đạo sư tối thượng đã dạy
Lý tính Duyên khởi
Tịch diệt đại lạc của các cấu trúc của tưởng
Trong đó mỗi pháp đều có thuộc tính
chẳng sinh, chẳng diệt,
chẳng đoạn, chẳng thường,
chẳng một, chẳng khác,
chẳng đến (với hiện hữu), chẳng đi (khỏi hiện hữu)
I pay homage to the Fully Awakened One,
the supreme teacher who has taught
the doctrine of relational origination,
the blissful cessation of all phenomenal thought constructions.
(Therein, every event is “marked” by):
non-origination, non-extinction ,
non-destruction, non-permanence,
non-identity, non-differentiation,
non-coming (into being), non-going (out of being).
(Nagarjuna: Kenneth K. Inada, 1993)

2. Bản dịch Việt (ĐHP) theo bản Anh của Nancy McCagney:

Kính tặng
Tôi kính lễ Đức Phật, Đạo sư Vô Thượng,
Ngài dạy giải thoát, tĩnh chỉ của các hiện tượng,
duyên khởi là ;
chẳng diệt, chẳng sinh, chẳng đoạn, chẳng thường,
chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi.
Dedication
I greet the best of teachers, that Awakened One,
who taught liberation, the quieting of phenomena,
interdependent origination which is ;
nonceasing and nonarising, nonmomentary and nonpermanent,
nonidentical and nondifferent, noncoming and nongoing.
(Nagarjuna and the Philosophy of Openness: Nancy McCagney, 1997)

Diễn giải bản dịch Việt và bản dịch Anh của Nancy McCagney:

Tôi kính lễ Đức Phật, Đạo sư Vô thượng,

Ngài dạy

“duyên khởi là” = “duyên khởi là duyên khởi là duyên khởi ” = lí tính của duyên khởi = giải thoát = tĩnh chỉ của các hiện tượng.

Ngài dạy “duyên khởi là” cũng là ngài dạy chân như, pháp tánh, vì duyên khởi, chân như, pháp tánh là cùng một nghĩa (a rose is a rose is a rose)

duyên khởi cũng là giải thoát, cũng là tĩnh chỉ của các hiện tượng;

tất cả đều có tám thuộc tính: chẳng diệt, chẳng sinh, chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng một , chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi.

(Chú thích: duyên khởi cũng là hiện hữu không có tự tính. ĐHP)

3. Bản dịch Việt (ĐHP) từ bản dịch Anh ngữ của Jeffrey Hopkins (1996), như sau:

Tôi kính lễ Phật toàn giác
Vô thượng Đạo sư đã dạy
Cái gì do duyên khởi
Chẳng diệt, chẳng sinh,
Chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng đến,
Chẳng đi, chẳng khác, chẳng một,
Chẳng có các cấu trúc của tưởng (chẳng có hiện hữu có tự tính và nhị nguyên đối đãi) và tịch tĩnh.
< I bow down to the perfect Buddha, /
The best of propounders, who taught /
That what dependently arises /
Has no cessation, no production, /
No annihilation, no permanence, no coming, /
No going, no difference, no sameness, /
Is free of the elaborations [of inherent / Existence and of duality] and is at peace.>
( Meditation on emptiness. p.162)

4. Bản dịch Việt (ĐHP) dịch từ bản dịch Anh của Geshe Ngawang Samten và J.L. Garfield (2006):

Tôi kính lễ Đức Phật Toàn Giác,
Vị Đạo sư tối thượng dạy rằng
Cái gì do duyên khởi đều là
Chẳng diệt, chẳng sinh,
Chẳng đoạn, chẳng thường,
Chẳng đến, chẳng đi,
Chẳng khác, chẳng một,
Và tịch lạc -- giải thoát cách tuyệt các cấu trúc của tưởng.
I prostrate to the perfect Buddha,
The best of all teachers, who taught that
That which is dependent origination is
Without cessation, without arising;
Without annihilation, without permanence;
Without coming, without going;
Without distinction, without identity
And peaceful – free from fabrication.
(Bản Anh trích từ trang 24 -- RJE TSONG KHAPA. Ocean of Reasoning. A great Commentary on Nagarjuna’s Mulamadhyamakakarika.
Translated by Geshe Ngawang Samten and J.L. Garfield.(Oxford, 2006)
(RJE Tsong Khapa. Đại hải của Suy lí. Đại luận giải về Căn bản Trung luận tụng của Ngài Long Thọ)

Ngài Tsong Khapa đã viết “Đại Hải của Suy Lí. Đại luận giải về căn bản Trung luận tụng của ngài Long Thọ”. Dưới đây là vài đoạn trích dịch từ luận giải của Ngài về bài tụng mở đầu.

1. < Ngài Long Thọ, diễn tả sự vĩ đại của đức Phật về giáo pháp không sai lệch, mà toàn thể nội dung Trung Luận sẽ giảng giải, chủ ý kính lễ đức Phật về giáo pháp mà nội dung không thể li cách với lí tính duyên khởi (the essence of dependent origination), và nói “Tôi kính lễ …” để có khả năng biên tập Trung Luận. Ở đây, duyên khởi được đặc hữu bởi tám thuộc tính “ bất diệt, v.v…(bát bất) là nội dung của Trung Luận. Giải thoát được đặc hữu bởi tịch tĩnh và tự do cách tuyệt với tất cả cấu trúc của tưởng là mục đích tối hậu (p.25)>

2. < Ngài Nguyệt Xứng trong Minh cú luận (Prasannapada), nói là bài tụng kính lễ này hiển lộ nội dung và mục đích tối hậu của Trung Luận. Đây là vì biểu từ này trình bày duyên khởi trong trạng thái sở hữu tám thuộc tính và giải thoát trong trạng thái tự do cách tuyệt với cấu trúc của tưởng”… (p.25)>

3. < “ Minh cú luận”, diễn giải về “ tịch tĩnh -- tự do cách tuyệt với cấu trúc của tưởng” nói:

Khi một kẻ nhận thức như thị tính của duyên khởi, thì chẳng còn sự tham dự của tâm và những tiến trình tâm ý(hữu tâm/ tâm hữu niệm không tham dự nữa—tâm ở trạng thái vô tâm /tâm vô niệm. ĐHP).

Theo “ Nhập trung đạo giải thích” của Nguyệt Xứng [ CHANDRAKIRTI. Madhyamakavatara –bhasya || ( Auto) Commentary on the “Entrance to (Nagarjuna’s) Treatise on the Middle Way” ] sự tham dự trong ngữ cảnh này là sự lang thang như khi ta nói sự lang thang của tâm và các biến cố tâm ý ( mental episodes) của nó được ngừng lại. Minh cú luận nói về điểm này:

Vì tâm niệm hữu niệm là sự lang thang của tâm, như thị tính, tự do cách tuyệt cái tâm niệm hữu niệm đó, thì không bị hữu niệm hoá.

Kinh điển nói, “Cái gì là chân lí tối hậu? Nơi nào không còn sự lang thang của tâm, chẳng còn nhu cầu để nói về lời” ( Kinh Bồ tát tạng. Bodhisattvapitaka-sutra) (p.25)>

4. < Khi ngài Nguyệt Xứng trích dẫn bản kinh này ngài không có ý nói rằng không có tuệ quán (insight), nhưng ngài chỉ biểu thị rằng sự lang thang của tâm niệm hữu niệm dừng lại (conceptual thought: niệm tưởng hiện hữu có tự tính và nhị nguyên đối đãi. ĐHP). Ý nghĩa của biểu từ rằng giả danh quy ước thế tục về chủ thể và đối tượng dừng lại thì chỉ có nghĩa rằng giả danh về chủ thể và đối tượng dừng lại đối với toàn cảnh của tĩnh chỉ thiền định,(vì chủ thể và đối tượng là giả danh, nghĩa là hữu danh vô thật , giả danh hữu. ĐHP) nhưng nó không có nghĩa rằng tuệ quán trong tĩnh chỉ thiền định và chân lí tối hậu không còn là chủ thể và đối tượng (Tuệ quán: chủ thể; chân lí tối hậu: đối tượng). Đây là bởi vì chuyện chúng là chủ thể và đối tượng thì không là tuyên bố khẳng định đối với toàn cảnh khách quan của tuệ quán phân tích, nhưng đối với toàn cảnh khách quan của sự lí hội thông hiểu quy ước thế tục (p.26) >

5. < Vì tám thuộc tính -- diệt, sinh, v.v., hiện hữu theo quy ước thế tục, chúng không thể bị luận bác mà không được cung cấp một mệnh đề tu chính (modifying phrase) trong ngữ cảnh này, Minh cú luận nói rằng mệnh đề tu chính là theo cái nhìn trí tuệ siêu việt bất cứ cái gì đoạn diệt thì không hiện hữu(nghĩa là bất cứ cái gì diệt /sinh /đoạn / thường / đến / đi / một / khác thì không hiện hữu . ĐHP).

Trong một ngữ cảnh sau, Minh cú luận nói:

“Cái nhìn quy ước thế tục thì không hoà hợp với bản chất của đối tượng theo cái nhìn của trí tuệ siêu việt không bị nhơ nhuốm, tự do cách tuyệt với mù sương của vô minh”[88b]

(It is not in accordance with the nature of the object of uncontaminated wisdom free from the mists of ignorance) (p.27) >

6. < Làm thế nào để diễn dịch rằng duyên khởi cách tuyệt với tám cực đoan (diệt, sinh,…) ( free from eight extremes).

Trong chương XXVI, hai tiếp cận với cuộc đời được phân biệt rõ: vướng mắc rối bời trong sinh tử tương tục xuyên qua vô minh và giải thoát chính mình cách tuyệt với sinh tử tương tục xuyên qua xoá bỏ vô minh.

Thế nên niết bàn và sinh tử tương tục, theo thứ tự, hiện hữu trong tính đức thấy hoặc không thấy như thị tính.

Bảy mươi bài tụng về tính không (Sunyatasaptati), tụng 64, ngài Long Thọ nói:

“Tuyên bố khẳng định sự-sự vật-vật sinh khởi do các nhân và các duyên /
trong trạng thái thật /
là cái mà đạo sư gọi “vô minh”/
Mười hai chi duyên khởi phát sinh từ đó”.(64)

To posit things arisen through causes and conditions/

As real /

Is what the teacher calls “ ignorance”/

The twelve limbs arise from that. (64)

Và trong “Bảo vương chính luận” (Ratnavali) :

Cũng giống như thế khi mê lầm /
chấp thủ thế giới giống như ảo ảnh sóng nắng này/
trong trạng thái hoặc hiện hữu hoặc không hiện hữu /
Nếu mê lầm, kẻ đó sẽ không đạt giải thoát.(I:56)

(trang 34-35) >

7. < “Bảo vương chính luận”nói:

Thế nên, trong thế giới giống như huyễn tượng này/
Sinh và diệt có thể xuất hiện /
Nhưng một cách tối hậu, sinh và /
diệt chẳng hiện hữu trong thực tại tính (II:11)>

Ở đây và bây giờ, số trang cho bài viết này có giới hạn, nên chúng ta tạm thời ghi nhớ tóm tắt vài điểm về bài tụng.

1. Duyên khởi là gì? Ngài Nguyệt Xứng trong “ Bản diễn giải Bốn trăm bài tụng của Thánh Thiên Đề bà” / “Commentary on Aryadeva’s Four Hundred ” viết

<< Hỏi: Ngài đề nghị học thuyết gì vậy?

Trả lời: Tôi đề nghị học thuyết duyên khởi.

Hỏi: Vậy thì, ý nghĩa của duyên khởi là gì?

Trả lời: Duyên khởi có nghĩa là chẳng có hiện hữu có tự tính. Nó có nghĩa là sự sinh khởi của những hiệu quả mà chúng có một bản chất giống như bản chất của những huyễn tượng, những ảo ảnh sóng nắng, những phản chiếu, những thành phố huyễn thuật của những kẻ sống bằng mùi hương (càn thát bà), những hoá hiện, và những chiêm bao. Nó nghĩa là tính không và vô ngã.”

(Jeffrey Hopkins. Meditation on Emptiness. p. 674)>>

2. Giáo pháp của Phật căn cứ trên nhị đế: thế tục đế và chân đế.

Theo thế tục đế, có diệt, sinh, đoạn, thường, đến, đi, một, khác. Ngài Long Thọ có nói trong “Bảy mươi bài tụng về tính không” :

< Đức Phật không giảng tiếp cận của thế gian là sai /

trong cách nói “cái này sinh khởi do tùy thuộc vào cái kia” (71 ab)>.

Và trong Hồi tránh luận (Vigrahavyavartani):

< Nếu không chấp thuận bất cứ một quy ước thế tục nào /

Chúng ta không thể đưa ra bất cứ một tuyên bố khẳng định nào cả(XXVIII cd) >

3. Duyên khởi không có tự tính. Duyên khởi và tính không có tám đặc hữu: chẳng diệt, chẳng sinh, chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng đến, chẳng đi, chẳng một, chẳng khác. Mệnh đề tu chính để sáng tỏ bát bất này là bát bất là nhìn từ cái nhìn tỉnh biết của trí tuệ siêu việt trong đại định (tam ma địa)

4. Lí tính / bản chất của duyên khởi (với tám thuộc tính bát bất) cũng là giải thoát, cũng là tĩnh chỉ của các hiện tượng.

Kẻ nào thấy duyên khởi thấy cái này; khổ, sinh khởi của khổ, diệt tận của khổ, và con đường giải thoát” (Trung luận XX IV, 40)

5. <“Cái gì phát khởi do tùy thuộc vào điên đảo của thanh tịnh và bất thanh tịnh, chúng chẳng duyên hội xảy ra trong trạng thái có tự tính./

Thế nên, trong chân đế, phiền não không hiện hữu”.(Trung luận XXIII, 2) >

6. <“Kẻ nào thấy duyên khởi thấy như thị ” (He who sees pratiyasamutpada sees suchness --dẫn bởi Nguyệt xứng, Minh cú luận) >

7. <“Chúng ta không khẳng định rằng cái này thì hiện hữu hoặc không hiện hữu; nhưng chúng ta chứng tỏ rằng những cấu trúc của tưởng về hiện hữu và không hiện hữu của những người khác là sai lầm;chúng ta khẳng định rằng xuyên qua sự xoá bỏ hai cực đoan, trung đạo được an lập”( Minh cú luận 127 b) >

8. Minh cú luận (88b) trích dẫn phát biểu của Đức Phật trong kinh Nhập Lăng già:

Tôi nói rằng sự-sự vật-vật thì bất sinh nghĩa là chúng bất sinh về mặt bản chất”.

9. Bài tụng cuối của Trung luận, Ngài Long Thọ nói:

Tôi kính lễ Gautama đại bi /
giảng pháp chân thật /
pháp duyên khởi để đoạn trừ tất cả các kiến chấp”.

10. Ngài Long Thọ nói, trong “Ca tụng Pháp giới” (Dharmadhatustava), tụng 49:

Giác chẳng xa chẳng gần /
Và chẳng đến chẳng đi /
Trú: được thấy, không thấy /
Trong mù sương phiền não”

____________________________

Nguồn: Quán Âm Buddhist Monastery .
Đặc san Hiện Thực. Số 25/2012. Năm thứ 8.
Mừng Xuân Nhâm Thìn 2012.
Quản Nhiệm : Thích Phước Ân. Tổng Thư kí: Tâm Tịnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 5518)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 6482)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 6050)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 10392)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 5043)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3951)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 7077)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 7850)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 13867)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
30/04/2010(Xem: 10405)
Đã khá lâu rồi, „Lá Thư Tịnh Hữu“ vắng bóng trên Viên Giác. Bắt đầu từ năm 2000, đến giờ sắp sang năm 2004, mà cũng chưa chấm dứt. Nhiều bạn hữu nói nhỏ, “không biết ông Thị Chơn Nghiệp Dọc này còn dài dài đến bao lâu nữa!”. Hôm kỷ niệm 25 năm thành lập chùa Viên Giác và báo Viên Giác, Thị Chơn (TC) tôi đảo một vòng trong khuôn viên của chùa để thăm các quầy phát hành bánh trái, nước uống và thức ăn chay. Chợt nghe một giọng Huế khá quen thuộc phát ra dưới mái lều che mưa nắng dựng nơi quầy phát hành của Sư Bà Như Tuấn:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]