Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại Tạng Kinh Phật Giáo: Kho tàng văn hóa tri thức của nhân loại

13/09/201100:42(Xem: 4565)
Đại Tạng Kinh Phật Giáo: Kho tàng văn hóa tri thức của nhân loại

daitangkinhvietnam_1
ĐẠI TẠNG KINH PHẬT GIÁO

kho tàng văn hóa - tri thức của nhân loại

HT.Thích Trí Quảng

Đức Phật tại thế, mọi người được sống hạnh phúc bên cạnh bậc đại Đạo sư minh triết tuyệt vời, cho nên không cần đặt ra vấn đề tìm hiểu về Phật. Nhưng khi Phật nhập Niết bàn, mọi người đều có chung suy nghĩ rằng cần góp nhặt lời Phật dạy để truyền cho nhau tu hành. Trong lần kiết tập đầu tiên, dĩ nhiên không thể trùng tuyên đầy đủ lời Phật dạy, cũng như không được mọi người tán thành hoàn toàn. Thật vậy, những chứng nhân quan trọng đã từng trực tiếp nghe Phật thuyết pháp như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên đã nhập Niết bàn. Ngoài ra, lịch sử cũng ghi rõ đại đệ tử thuyết pháp bậc nhất Phú Lâu Na và 500 Tỳ kheo không đồng ý với những gì được kiết tập. Họ đã đến hang động khác để trùng tuyên lại.

Có thể nói vì trình độ hiểu biết của mỗi người khác nhau, cho nên tuy cùng một lời dạy của Đức Phật mà lại nảy sanh những nhận thức khác biệt. Từ đây, nhiều bộ phái Phật giáo được hình thành, nhưng chung quy có hai bộ phái chính là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Tư tưởng của Thượng tọa bộ truyền xuống phía Nam được tiếp nhận nguyên vẹn, vì nơi đây nền văn hóa còn thấp. Ngược lại, tư tưởng Phật giáo của Đại chúng bộ từ Trung Ấn lên Bắc Ấn, gặp ngay tư tưởng triết học có sẵn thuộc văn hóa Hy Lạp, Ai Cập, La Mã. Thật vậy, sau Phật nhập diệt 400 năm, Alexandre chinh phục Ấn Độ và mang đến tư tưởng Hy Lạp, một nền triết học lớn của nhân loại thời ấy. Chính trong môi trường của văn minh Ấn kết hợp với văn minh Hy Lạp sản sinh ra tư tưởng Phật giáo Đại thừa, tạo nên một cái nhìn mới về Phật giáo dưới dạng triết học.

Đại thừa Phật giáo, hay Phật giáo phát triển chú trọng đến việc vận dụng tinh thần của kinh, diễn tả theo chân ý của Phật bằng lối văn thời đại. Sách giáo lý diễn tả theo văn xưa không còn thích hợp được thay bằng kinh điển Đại thừa có khả năng đương đầu với tư tưởng ngoại đạo. Đó là chân tinh thần Phật giáo phát triển truyền bá đến nơi nào cũng tiếp thu những nét sáng đẹp của văn hóa địa phương để phát triển tinh ba của địa phương ấy. Sức sống của Phật giáo phát triển giống như dòng nước ngọt trôi chảy đến mọi nơi, nuôi sống tưới tẩm đất đai cây trái xanh tươi.

Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng kinh điển Phật giáo dù thuộc hệ Nam truyền hay Bắc truyền đều không phải ghi nhận một cách chính xác trực tiếp từ lời nói của Đức Phật. Ý kinh thuộc về phần thuyết giảng của Phật, nhưng văn kinh do người đời sau ghi lại. Mỗi khi thuyết pháp, Đức Phật tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh địa phương mà Ngài nói pháp tương ưng khác nhau. Trong chúng hội, người nghe pháp trình độ không đồng, nên sức tiếp thu và ghi nhận phải khác nhau là điều tất yếu.

Nội dung kinh tạng Nikaya thuộc hệ Nam truyền bao hàm nền tảng căn bản giáo lý Phật Đà, với lối văn mộc mạc, bình dân, cho nên dễ hiểu và dễ ứng dụng thực hành. Trong khi kinh điển Phật giáo phát triển thì văn lý hàm chứa ý nghĩa sâu sắc và chải chuốt, thường triển khai các loại hình thế giới siêu nhiên nhiều hơn, như kinh Hoa Nghiêm có đến 45.000 bài kệ. Nhưng dù kinh tạng thuộc hệ Nam truyền hay Bắc truyền đều đề cập từ những giáo lý căn bản như Tam quy, Ngũ giới, cho đến Tứ đế, Duyên khởi, Vô ngã, từ những phương pháp xây dựng đời sống gia đình an vui, hạnh phúc cho hàng Phật tử tại gia, đến các phương pháp tu tập diệt trừ phiền não và chuyển hóa tâm thức để đạt được các Thánh quả cho hàng đệ tử xuất gia, v.v…

Theo dòng thời gian, đạo Phật tồn tại và phát triển theo đà tiến hóa của nhân loại cho đến nay đã trải qua gần 26 thế kỷ. Với chiều dài lịch sử gắn bó mật thiết với cuộc sống con người lâu xa như vậy, Đại tạng kinh Phật giáo luôn luôn là kim chỉ nam cần thiết và có giá trị tuyệt đối cho cuộc sống thương yêu, hòa bình, hạnh phúc, hiểu biết đúng đắn của thế giới loài người. Thật vậy, lịch sử Phật giáo đã chứng minh rõ nét rằng theo bước chân hoằng pháp độ sanh từ thời Đức Phật tại thế đến chư vị Tổ sư và cho đến ngày nay, trải qua khắp năm châu bốn biển, không bao giờ có đổ máu, hận thù, tàn phá, giết chóc, mà giáo lý Phật Đà chỉ xây dựng tình thương vô ngã vị tha, lòng độ lượng và trí tuệ cho mọi người. Tình thương trong sáng và sự thật muôn đời vẫn là những gì quý báu nhất cho mọi người, mọi xã hội. Vì vậy, xã hội càng tiến bộ, mọi người càng nhận ra sự trong sáng của lòng từ bi, của đức khoan dung và của sự hiểu biết đúng đắn theo tinh thần Phật dạy lưu lại trong kinh điển Phật giáo.

Từ tinh thần tùy duyên, các bậc chân tu đã ứng dụng những phương tiện độ đời một cách khéo léo, khiến cho đạo Phật toát lên những màu sắc đa dạng. Người thì cho đạo Phật là một tôn giáo, vì đọc tụng kinh Phật dạy, hay lễ lạy tôn tượng Phật, Bồ tát, họ đã tìm thấy được sự bình an trong tâm hồn. Người thì cho đạo Phật là một hệ thống triết học cao siêu. Có người tìm thấy đạo Phật là nền văn hóa cực kỳ quý báu của phương Đông, v.v… Có thể khẳng định rằng đạo Phật bao gồm tất cả những yếu tố đặc sắc kể trên, mà hơn thế nữa, giáo pháp Phật dạy còn vượt lên trên tất cả, vì đã chỉ dạy cho con người phương pháp chấm dứt khổ đau, xây dựng được cuộc sống an lạc, tự tại ngay đây và ngay bây giờ. Tuy có hình thức tôn giáo, nhưng đạo Phật không chấp nhận sự lệ thuộc con người vào thần linh, mà trái lại coi con người là trung tâm điểm có khả năng thăng hoa cuộc sống đến những tầng cao hơn, tốt đẹp hơn. Và mỗi người đều có thể nương vào lời Phật dạy, để chuyển hóa phiền não, khổ đau mà từng bước tạo cho mình cuộc sống an lạc ngay trong hiện tại, ngay trong cuộc sống ở đây, chứ không phải chờ đến một kiếp xa xăm nào, ở cõi vô hình nào.

Tóm lại, trong kho tàng kinh điển Phật giáo vô cùng đồ sộ, Đức Phật luôn chỉ dạy mọi người những phương pháp sống để có được cuộc đời có ý nghĩa, bình an và sung sướng hơn. Từ đó, tạo ra một thế giới hài hòa, hòa bình, an vui, hạnh phúc.

Với nền tảng mưu cầu hạnh phúc vì nhân sinh và cho nhân sinh như vậy, giáo pháp Phật mãi mãi tồn tại song hành cùng với con người và tỏa sáng giá trị văn hóa, trí tuệ tuyệt đỉnh cho nhân loại.

(NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ SỐ 186/ Thư Viện Hoa Sen)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 38708)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.
08/04/2013(Xem: 6502)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 8200)
Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài.
08/04/2013(Xem: 6001)
Dòng tâm thức luôn lăn trôi từng sát na sanh diệt, do đó chúng ta sống trong thế giới hiện tượng này làm sao tránh khỏi tâm viên ý mã, mà nguyên nhân là lý sanh diệt luôn biến dị chi phối , làm cho chúng ta tưởng chừng như có nhiều tâm trong con người. Thật vậy tâm luôn thay đổi qua nhiều tình huống, thăng trầm của tư duy qua sự phát triển của khối óc và căn cơ trình độ.
08/04/2013(Xem: 14427)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 15167)
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
08/04/2013(Xem: 10525)
Hai chữ Kim Cang, nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri kiến theo thói xưa tầm thường.
08/04/2013(Xem: 7167)
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.
08/04/2013(Xem: 17825)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
08/04/2013(Xem: 9112)
Mùa hè năm 1996, tôi có dịp sang Canada thuyết giảng và hướng dẫn vài khóa tu học. Một số Phật tử đã thâu băng những buổi giảng và chép ra để làm tài liệu tu tập...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]