Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Diệu Minh Thường Trụ

01/07/201100:28(Xem: 3040)
Tâm Diệu Minh Thường Trụ

Kalu Rinpoche
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 11]
Trung hữu của Tính Không
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: The Bardo of Emptiness

Khi thời điểm Tính Không hiện hữu nơi tôi
Tôi nguyện không bị hốt hoảng vì Hội thượng của các vị Phật bảo hộ từ bi
và uy mãnh : những biến hiện của chính tâm của tôi.
Liên Hoa Sinh. Tử thư Tây Tạng.

Trung hữu này được gọi là Trung hữu của Tính không bởi vì, như chúng ta vừa mới thảo luận, nó là thời điểm mà quang sắc giác chiếu, hoặc bản chất căn bản của tâm, xuất hiện đối với một hữu tình đã giác ngộ (=viên giác). Trong khi hữu tình viên giác trải nghiệm trung hữu của tính không, thì một hữu tình bình thường trải nghiệm thời kì của bất thức, nói chung, kéo dài ba ngày rưỡi, trong suốt thời gian đó tâm duy trì trong trạng thái bất ý thức, không có khả năng thấu hiểu, tối mịt.

Các quang sắc và chư phật bảo hộ.

Sau thời kì này của bất thức, tâm thức và những huyễn tượng của nó hoạt động trở lại, và trong vài sát na tâm thức trải nghiệm năm quang sắc cảnh chiếu căn bản chúng được miêu tả như là cực kì vi tế. Những quang sắc cảnh chiếu này xuất hiện đồng thời với những phương diện từ bi và uy mãnh của trung hữu, ứng hiện (manifesting) trong trạng thái những cầu vồng, những điểm quang sắc, những đám mây, và những hiện tượng quang minh phát sáng khác. Những hiện tướng vào lúc cuối trung hữu của tính không thì rất chớp nhoáng.

Mặc dù những ứng hiện này (manifestations) rất biến đổi khác biệt, trạng thái này thì tương tự với trạng thái giữa thức dậy và đang ngủ. Những hiện tượng chúng ta vừa thảo luận đặc trưng hoá cái biên giới giữa hai trung hữu này, đã được miêu tả trong quyển Tử thư Tây Tạng như là những ảnh hiện hư huyễn (apparitions) của chư phật bảo hộ từ bi và uy mãnh khác nhau ( peaceful and wrathful deities). Nếu chúng ta có thể nhận định sáng tỏ bản chất linh thánh của những hiện tướng này (these appearances), chúng ta có thể hợp nhất với chúng và đạt giải thoát một cách tức thời và đồng thời, trong trạng thái tất cả trải nghiệm và hiện tướng trở thành chính chư phật bảo hộ.

Trong suốt thời kì này, chúng ta nghe những âm thanh đáng sợ và vũ bão lớn hơn cả ngàn sấm chớp bùng nổ cùng nhau. Âm thanh làm điếc tai này là âm thanh của tính không (=chân không diệu viên). (This deafening sound is the sound of emptiess)

Khắp toàn thể hư không trong mọi phương hướng, nhiều điểm quang sắc khác biệt và những ánh chớp quang sắc rực rỡ như các cầu vồng xuất hiện, và chúng ta tri nhận những cách thế của tồn tại và một linh ảnh của nhiều cõi phật thanh tịnh và những quốc độ linh thánh: tất cả những trạng thái khác biệt của sinh tử lưu chuyển và niết bàn trở thành có thể cảm thấy được. Trải nghiệm của tất cả những sự sự vật vật này thì rất giống như những khu quận hạt sống động của Paris trong suốt những giờ cao điểm xe cộ qua lại. Nó thì giống như chúng ta ở trong giữa đám đông người nhộn nhịp qua lại một cách không ngừng, và dòng xe cộ theo đủ mọi phương hướng. Để cho tỉ dụ của chúng ta đầy đủ, chúng ta phải thêm những chuyến xe lửa nặng nề và những máy bay dàn hàng ngang trên bầu trời; và toàn quang cảnh hỗn độn ầm ầm.

Những người đã được điểm đạo tu tập thiền quán trung hữu và có trải nghiệm thực sự về chúng có thể nhận ra được nhiều hiện tướng khác biệt này và đạt đến giải thoát ở giai đoạn này. Nếu không đạt giải thoát, thì gặp khá khó khăn. Không nhận biết sáng tỏ bản chất chư phật bảo hộ uy mãnh, kẻ đó bị hoảng sợ và, bị tê liệt với nỗi sợ hãi, đánh mất ý thức (=tâm thức). Và bởi vì bản chất của những phương diện từ bi đi qua không được nhận định, đó là không thể dung hội với quang chiếu của chư phật bảo hộ, thế nên kẻ đó lui lại vì hốt hoảng dường như bị mù loà vì quang sắc của mặt trời hoặc mặt trăng.

Vào thời điểm này, những quang sắc cực kì rực rỡ trắng, vàng, đỏ, lục, và lam xuất hiện ; chúng là những quang sắc của sáu cõi phật thanh tịnh. Vào cùng thời điểm, sáu quang sắc tương ứng của sáu cõi của sinh tử lưu chuyển xuất hiện. Những quang sắc này có cùng màu sắc với những quang sắc của sáu cõi phật nhưng mờ nhạt hơn nhiều (xỉn, xạm, ảm đạm). Sự viên minh quang chiếu chói lọi rực rỡ của những quang sắc phật thì chói loà và khó dung hội, làm cho chúng ta thoái lui cách tuyệt chúng. Trái lại, những quang sắc mờ nhạt của sáu cõi sinh tử lưu chuyển thì hấp dẫn và quyến rũ và dẫn đẩy chúng ta sinh vào nơi đó.

Kết thúc của trung hữu của tính không là giai đoạn của sự tái cấu trúc của tâm thức. Những khí làm sinh động tâm thức tái ứng hiện (remanifest). Cái khí “cái làm vô minh sinh khởi” trở lại đồng thời trong trạng thái khí nguyên tố khí, tương ứng với những linh ảnh của những quang sắc màu lục. Rồi thì, những khí lửa, nước, và đất, tương ứng theo thứ tự với những quang sắc màu đỏ, trắng, và vàng, tái xuất hiện. Năm quang sắc này là những hoá hiện của năm khí và bản chất tinh yếu của năm nguyên tố (năm đại). Sự tái biến hiện này của năm nguyên tố được sinh ra trong trạng thái thân tâm ý của hữu tình trong trung hữu và những trải nghiệm bên ngoài của nó được kiến lập .

Dựa vào sự tái hiện của những khí, những loại khác biệt của các ý niệm trở lại trong thứ tự đảo ngược của sự biến mất của chúng: trước nhất bảy (7) loại của vô minh hoặc ngu si, theo sau bởi bốn mươi (40) loại của tham dục hoặc quyến luyến, và sau cùng, ba mươi ba (33) loại của thù ghét hoặc đối nghịch. Đây là cách như thế nào sự ứng hiện và những trải nghiệm của trung hữu của hữu tái sinh xuất hiện, nó sẽ ngừng lại khi tái sinh xảy ra trong một trong sáu cõi của sinh tử lưu chuyển.

______________________________________

Kalu Rinpoche

The Bardo of Emptiness

When the moment is upon me
May I not be frightened by the collection of peaceful and wrathful aspects :
Emanations of my own mind.
Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead.

_________________

This bardo is called the bardo of emptiness because, as we have just discussed, it is the moment at which the clear light, or the essential nature of mind, appears to an enlightened being. The period of unconsciousness that an ordinary being experiences instead generally lasts three and a half days, during which time the mind remains in a dark, impenetrable, and unconscious state.

LIGHTS AND DEITIES

After this period of unconsciousness, the consciousness and its illusions revive, and for few moments the consciousness experiences five essential luminosities that are described as extremely subtle. These appear simultaneously with the peaceful and wrathful aspects of the bardo, manifesting as rainbows, points of light, clouds, and other luminous phenomena.The appearances at the end of the bardo of emptiness are very fleeting.

Although these manifestations vary, this state is similar to that between waking and sleeping. The phenomena we have just discussed, which characterize the boundary between these two bardos, are described in The Tibetan Book of the Dead as apparitions of various peaceful and wrathful deities. If we can recognize the divine nature of these appearances, we can unite with them and immediately and spontaneously gain liberation, as all experience or appearance becomes the deity itself.

During this period, we hear violent and terrifying sounds louder than a thousand thunderclaps exploding together. This deafening sound is the sounds of emptiness.

Throughout space in all directions, many different points of light and brilliant flashes of light like rainbows appear, and we perceive the conditions of existence and a vision of the various pure Buddha realms and their celestial spheres: all of samsara’s and nirvana’s different states become perceptible. The experience of all these things much like the lively districts of Paris during rush hour. It is as though we were in the middle of a huge throng, with people bustling here and there endlessly, and streams of cars driving in every direction. For our example to be complete, we would have to add heavy train traffic along with many airplanes criss-crossing the sky above, and the whole chaotic spectacle throbbing.

People initiated into practices of the bardo who have an authentic experience of them can recognize these various appearances and gain liberation during this phase. Otherwise, it gets a bit difficult. Not knowing the nature of the wrathful deities, a person is terrified and, paralyzed with fear, loses consciousness. And since the nature of the peaceful aspects goes unrecognized, it is impossible to tolerate their radiance, so people recoil as if blinded by the light of the sun or the moon.

At this moment, extremely brilliant white, yellow, red, green, and blue lights appear; they are the lights of the six pure Buddha realms. At the same time, six lights corresponding to the six realms of samsara appear.These six are the same colours as the six Buddha realms’s but are much duller. The vivid clarity of the Buddha lights is dazzling and difficult to tolerate, which make us withdraw from them. By contrast, the pale lights of the six realms of samsara are attractive and seductive and propel us to take rebirth there.

The end of the bardo of emptiness is the period of the restructuring of consciousness. The winds that animate consciousness remanifest. The wind “that makes ignorance arise” returns at the same time as the air wind, which corresponds to visions of green lights. Then, the fire, the water, and the earth winds, corresponding respectively to red, white, and yellow lights, reappear.

These five lights are the emanation of the five winds and the quintessence of the five elements. This remanifestation of the five elements is produced as the mental body of the bardo being and its outer experiences are created.

Upon the reappearance of the winds, the different types of conceptions return in the inverse order of their disappearance: first, the seven (7) kinds of ignorance or stupidity, followed by the forty (40) types of desire or attachment, and finally, the thirty- three (33) kinds of hatred or aversion. This is how the manifestation and experiences of the bardo of becoming appear, which will stop when rebirth occrs in one of the six realms of samsara.

________________________________

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Budda. Wisdom,1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/08/2017(Xem: 6861)
Thưa đại chúng, hôm nay là ngày 01 tháng bảy năm 2017, tại tu viện Thiện Hòa, thành phố Moenchenladbach , Đức quốc. Tôi có duyên với quý vị trong giờ phút này, và tôi xin chia sẻ pháp thoại “Đức Phật A Di Đà trong đời sống của tất cả chúng ta”.
10/05/2017(Xem: 6885)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6503)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8293)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4052)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5520)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16445)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11397)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9727)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 14150)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567