Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thử thách của những tôn giáo khác

29/03/201122:17(Xem: 9717)
Thử thách của những tôn giáo khác
THỬ THÁCH CỦA NHỮNG TÔN GIÁO KHÁC
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 21/03/2011

HHDL-by-rgmsChúng ta điều hòa với đa nguyên tôn giáo như thế nào, điều rất cần thiết trong thế giới hiện nay, với sự quan tâm sâu sắc đến tín ngưỡng của chính chúng ta? Đức Đạt Lai Lạt Ma cống hiến giải pháp của ngài.

Với nhiều tín đồ, chấp nhận tính chính đáng của những truyền thống tín ngưỡng khác đặt ra một thử thách nghiêm trọng. Để chấp nhận những tôn giáo khác là chính đáng có thể dường như làm tổn hại tính nguyên vẹn niềm tin tôn giáo của chính mình, vì nó đòi hỏi sự thu nạp những con đường tâm linh khác nhau nhưng hiệu quả. Một Phật tử thuần thành có thể cảm thấy rằng chấp nhận những con đường tâm linh khác như những khuyến nghị giá trị về sự hiện hữu của những phương pháp khác hơn Đạo Phật đối với việc đạt đến giác ngộ. Một tín đồ Hồi Giáo có thể cảm thấy rằng chấp nhận những truyền thống khác như hợp lý sẽ đòi hỏi việc từ bỏ niềm tin với sự liên hệ của Thượng Đế (hay Thánh Allah) đến Đấng Tiên Tri Muhammad, như được ghi lại trong kinh Koran, đại diện cho sự liên hệ tối hậu đến chân lý tối thượng. Cùng trong ý tưởng ấy, một người Ki Tô hữu có thể cảm thấy rằng việc chấp nhận tính chính đáng của những tôn giáo khác sẽ đưa đến sự tổn thương đức tin then chốt mà đấy là chỉ qua Giê-Su Ki-Tô mới có con đường tìm thấy Thượng Đế. Thế nên, việc chạm trán với một tín ngưỡng hoàn toàn khác biệt, mà người ta có thể không né tránh cũng không giải thích thoái thác, sẽ đưa ra một thử thách nghiêm trọng đến những tiền đề sâu xa.

Điều này phát sinh những câu hỏi quan trọng: Một ý chí niềm tin đơn độc của con người có thể cùng tồn tại với sự chấp nhận những tôn giáo khác như chính đáng hay không? Có phải tính đa nguyên tôn giáo là không thể có đối với một người thuần thành ngoan đạo, người hiến dâng một cách mạnh mẽ và sâu thẩm đến truyền thống tín ngưỡng của họ?

Tuy thế không có một sự nổi bật của một tinh thần chân thành đa nguyên tôn giáo, thì sẽ không có hy vọng cho việc phát triển một sự hòa hiệp căn cứ trên sự thấu hiểu liên tôn chân thật.

Về mặt lịch sử, các tôn giáo đã trãi qua một chiều dài lâu xa, ngay cả tiến hành những cuộc chiến tranh, để trãi rộng lập trường của họ về những gì mà họ nghĩ là một phương thức đúng đắn. Ngay cả trong chính trong phe phái của họ, các tôn giáo đã trừng trị một cách vô cảm những giọng nói không chính thống hay dị giáo mà truyền thống xem như phá hoại tính nguyên vẹn của những chân lý không thể xâm phạm mà niềm tin đặc trưng đại diện. Triết lý tổng thể của hành vi truyền giáo – đấy là, sự tập trung trên việc đem đến sự hoán đổi hành động của con người từ những tôn giáo khác nhau hay không tín ngưỡng – được đặt nền tảng trong ý tưởng của việc mang đến “một phương pháp chân chính” đến những ai mà đôi mắt của họ tiếp tục đóng kín. Trong một ý nghĩa, người ta có thể ngay cả nói rằng có một động cơ vị tha bên dưới sự thúc đẩy này để thay đổi những người thuộc tôn giáo khác thành tôn giáo của mình.

Trưng ra lịch sử này và đưa ra nhận thức về sự xung đột mà nhiều người có tôn giáo cảm thấy giữa việc duy trì tính toàn vẹn niềm tin của chính họ và việc chấp nhận đa nguyên, là sự nổi bật của tinh thần hòa hợp liên tôn chân thành căn cứ trên sự thấu hiểu hổ tương là hoàn toàn có thể chứ? Những học giả tôn giáo nói về ba cung cách mà trong ấy một tín đồ của một truyền thống tín ngưỡng có thể liên hệ đến sự hiện hữu của những truyền thống tín ngưỡng khác.

- Một là sự độc tôn thẳng thắn, một vị trí mà tôn giáo của ta là tôn giáo chân chính duy nhất và điều ấy phủ nhận tính chính đáng của những truyền thống tôn giáo khác, như nó được mặc định. Đây là một quan điểm thường được những môn đệ trung thành khắn khích của những truyền thống tôn giáo khác nhau thực hiện.

- Một vị thế khác là bao hàm, bởi đó người ta tiếp nhận một phần giá trị của những tôn giáo khác nhưng cho rằng những giáo huấn của tôn giáo khác là thế nào ấy có chứa đựng trong truyền thống tín ngưỡng của chính họ - một vị trí lịch sử đặc trưng bởi một số người Ki Tô đáp ứng đến mối liên hệ Do Thái Giáo và Hồi Giáo đến cả Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo [1]. Mặc dù bao dung hơn vị thế thứ nhất,nhưng quan điểm thứ hai này một cách căn bản gợi ý sự dư thừa của những truyền thống tôn giáo khác.

- Cuối cùng, có chủ nghĩa đa nguyên, mà đấy là chấp nhận giá trị tất cả những truyền thống tôn giáo.

Do vậy, với những sự quan tâm này như nền tảng, làm thế nào một tín đồ của một truyền thống tôn giáo đối phó với những câu hỏi về tính chính đáng của những tôn giáo khác? Trên mức độ lý thuyết, đây là một câu hỏi của việc làm thế nào để điều hòa hai khái niệm dường như đối kháng với nhau có liên quan đến những truyền thống tôn giáo của thế giới. Chúng tôi thường mô tả đặc điểm hai khái niệm này như “một chân lý, một tôn giáo” đối ngược với “nhiều chân lý, nhiều tôn giáo.” Làm thế nào một người thuần thành ngoan đạo hòa hiệp nhận thức “một chân lý, một tôn giáo” trong sự hiện hữu giáo lý của chính người ấy để công nhận khái niệm “nhiều chân lý, nhiều tôn giáo” mà hiện thực thế giới con người không thể phủ nhận đòi hỏi?

Như nhiều tín hữu tôn giáo cảm thấy, tôi đồng ý rằng một phiên bản nào đấy của chủ trương bao hàm – nguyên tắc “một chân lý, một tôn giáo” – hiện diện trong trung tâm của hầu hết những tôn giáo quan trọng của thế giới. Xa hơn thế, một ý chí độc tôn truyền thống tin tưởng của một người đòi hỏi nhận thức rằng niềm tin chọn lựa của họ đại diện cho giáo lý tín ngưỡng tối thượng. Thí dụ, đối với tôi Đạo Phật là đệ nhất, nhưng điều này không có nghĩa là Phật Giáo là tuyệt nhất cho tất cả mọi người. Chắc chắn là không. Đối với hàng triệu con người đồng loại của tôi, những hình thức giáo lý hữu thần đại biểu cho lộ trình tuyệt hảo nhất. Do thế, trong phạm vi của cá nhân hành giả tôn giáo, khái niệm “một chân lý, một tôn giáo” tiếp tục thích đáng nhất. Điều này ban cho năng lực và sự tập trung nhất niệm trong con đường tu tập của hành giả. Đồng thời, điều quan yếu là hành giả tôn giáo không nuôi dưỡng một sự vướng mắc vị kỷ, cho mình là trung tâm, trong niềm tin của mình.

Originally published in the September 2010 issue of the Shambhala Sun
Tenzin Gyatso, the Fourteenth Dalai Lama, is the spiritual and temporal leader of the Tibetan people and a recipient of the Nobel Peace Prize and the U.S. Congressional Gold Medal

The Challenge of Other Religions , excerpted from Toward a True Kinship of Faiths: How the World's Religions Can Come Together, by His Holiness the Dalai Lama. © 2010 by His Holiness the Dalai Lama. Reprinted with permission from Doubleday Religion

Phụ chú:

[1] Abrahamic coalition (Christians, Jews and Muslims) - liên minh của Do Thái Giáo, Ki Tô Giáo, và Hồi Giáo: Đối với Liên Minh Abraham, linh hồn (soul) là điều gì đấy “được tạo ra” bởi Thượng Đế là điều được ‘ban cho’ con người. Thượng Đế và Sa Tăng cả hai đều “tranh giành” linh hồn. Người ta có thể “bán” linh hồn cho Sa Tăng và người ta có thể “cứu rỗi hay chuộc lại” linh hồn của người ta. Thú vật mặc dù hoàn toàn ý thức và chia sẻ nhiều thuộc tính với con người nhưng không “sở hữu” linh hồn. Ba tín ngưỡng trên ngay cả tranh luận cho đến thời kỳ trung đại về vấn đề phụ nữ có linh hồn hay không! Hindu concept of Self and Abrahamic concept of soul - http://veda.wikidot.com/self
Ba tín ngưỡng trên tuy nhiên vẫn không thống nhất tín lý với nhau, “một tôn giáo lớn nữa cũng tôn thờ Thiên Chúa mà họ gọi là Đấng Allah. Đó là Đạo Hồi (Islam) do Muhammad sáng lập vào năm A.D 622.Từ ngữ Islam trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “Tuân phục ý muốn của Thiên Chúa= (Submission to the will of God) nhưng Đạo này khác xa Đạo Do Thái và các Nhánh KitôGíao nói trên về nhiều mặt.”

Ẩn Tâm Thất ngày 26/03/2011

http://shambhalasun.com/index.php?option=com_content&task=view&id=3565&Itemid=0

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/03/2013(Xem: 4876)
Xưa nay có một số người hiểu lầm cho rằng Niết-bàn là hư vô, hủy diệt, hay là cái chết. Nếu hiểu như thế thì không đúng với tinh thần kinh điển Phật giáo. (Trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 180, mục Chuyện Đông Chuyện Tây tr. 57, ông An Chi có trả lời một độc giả về xuất xứ của từ Niết-bàn, nhưng về ý nghĩa, ông muốn độc giả tự tìm hiểu lấy. Nhân đây, chúng tôi xin góp ý về cách lãnh hội khái niệm Niết-bàn theo kinh điển Phật giáo, để giúp độc giả nào muốn tìm hiểu thêm một từ ngữ khá hàm súc và thường bị ngộ nhận này).
21/03/2013(Xem: 4601)
Mỗi khi Phật giáo di cư từ vị trí của nó có nguồn gốc tại Ấn Độ đến các quốc gia khác như Sri Lanka, Miến Điện, Nhật Bản, Trung Quốc hay Tây Tạng…triết học, phong tục và nghi lễ cũng được thay đổi. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, sự tái định cư của Phật giáo với phương Tây kèm theo với một số thay đổi của những sự nổi bật và văn hóa. Ở Tây Tạng, các bậc thầy tôn kính có thể cô lập mình trong các hang động xa xôi, đôi khi hàng chục năm trong đại định.
18/03/2013(Xem: 6443)
Mỗi năm hoa Vô Ưu lại nở một lần, những người con Phật sống dưới bất cứ phương trời nào, dù ngôn ngữ bất đồng, nhưng muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày Đản sinh của đức Từ Phụ. Hình ảnh của đức Thế Tôn là một bài ca bất tuyệt, giáo pháp của Ngài là ánh hải đăng chiếu sáng nghìn thu. Những pháp âm tại vườn Lộc Uyển, núi Linh Thứu thuở nào dường như còn vang vọng đâu đây. Pháp âm ấy tỏa khắp muôn phương, thấm sâu vào tâm hồn của những chúng sinh đang khát khao hạnh phúc và chân lý.
23/02/2013(Xem: 5539)
Một thời đức Phật ngự tại rừng Ca Duy nước Thích Sí Đề cùng với 500 Thánh tăng toàn là bậc A La Hán, bấy giờ có bốn vị Trời ở cõi Tịnh Cư nơi Thiên cung đều nghĩ: “Nay đức Thế Tôn và 500 vị Đại Tăng, toàn là bậc Thánh A La Hán đang ngự trong rừng Ca Duy thuộc nước Thích Sí Đề, đồng thời có vô số chư Thiên với thần thông vi diệu từ 10 phương đều tập trung ở đấy để kính lễ đức Như Lai và chúng Đại Tăng.
19/02/2013(Xem: 6332)
Một câu hỏi lớn nằm dưới kinh nghiệm của chúng ta, dù chúng ta nghĩ về nó một cách ý thức hay không: mục đích của cuộc sống là gì? Tôi đã cân nhắc câu hỏi này và muốn chia sẻ những suy nghĩ của mình với hy vọng rằng chúng có thể có lợi ích trực tiếp và thực tế đối với những ai suy nghĩ về chúng.
11/01/2013(Xem: 7194)
Khi chúng ta nói về tính bản nhiên của tâm thức trong phạm trù Phật Giáo, chúng ta phải hiểu rằng nó có thể được hiểu trên hai trình độ khác nhau: 1- Trình độ căn bản của thực tại, nơi tính bản nhiên của tâm được hiểu trong dạng thức của tính không của nó của tính tồn tại vốn có, và 2- Sự liên hệ hay trình độ quy ước, điều liên hệ đến chỉ là phẩm chất của độ sáng, tri thức và kinh nghiệm.
26/12/2012(Xem: 6178)
Là pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha. Vì sao? Vì niệm Phật vãng sinh, được thấy Phật nghe pháp, chứng vô sinh nhẫn, đắc thân, khẩu, ý tam luân bất tư nghì nghiệp, trở lại tam giới quảng độ chúng sinh. Trong cái chán khổ ấy chính là muốn cứu khổ cho chúng sinh, tức tâm đại bi của Bồ Tát vậy...
14/12/2012(Xem: 9958)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
13/12/2012(Xem: 9373)
Chúng tôi nghĩ chúng tôi vừa trả lời điều ấy! Về mặt khác, chúng tôi không có câu trả lời đặc biệt đến câu hỏi của bạn. Tuy thế, chuyển hóa thái độ tinh thần là nhiệm vụ chính của chúng ta. Làm thế nào chúng ta có thể hoàn thành điều này: Làm thế nào chúng ta có thể mang việc làm này về trong gia đình và trường học?
13/12/2012(Xem: 6966)
Tôi thường cầu nguyện rằng tất cả chúng ta sẽ luôn luôn tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con. Bởi khi chúng ta bám chấp vào tâm thức của riêng ta, hình ảnh của bản thân ta, năng lực trí thức của ta, ta đánh mất một điều gì đó. Tâm ta trở nên chai cứng. Đối với hành giả Giáo Pháp lâu năm, điều tối cần thiết là họ cần tiếp cận với Pháp như những đứa trẻ, bởi chúng ta có cảm tưởng rằng ta không phải kiểm soát bản thân nữa. Ta không phải khảo sát tâm ta thêm nữa. Ta không phải thực sự nhìn vào trong và xem điều gì xảy ra. Vì thế ta trở nên khô cạn. Ta làm hư hại Pháp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]