Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sinh ra làm người quý báu

17/12/201019:21(Xem: 5294)
Sinh ra làm người quý báu

SINH RA LÀM NGƯỜI QUÝ BÁU
Lạt ma Gursam - Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Dù thế nào chăng nữa thì mọi cuộc đời đều quý báu. Trước hết, quý báu có nghĩa là gì? Trong Phạn ngữ, từ ratna để chỉ cho sự quý báu. Trong tiếng Tây Tạng, ratna đôi khi được dịch là konchog và có lúc được dịch là rinpoche. Đôi khi từ này được dịch ngắn gọn là rinchen. Những lúc khác được dịch là norbu, có nghĩa là viên ngọc quý. Vì thế, tiếng Tây Tạng thật phong phú khi diễn tả những thuật ngữ tâm linh khác nhau. Theo Uttaratantra của Bồ Tát Maitreya (Di Lặc) - một trong những bản văn Phật Giáo quan trọng nhất - việc sinh ra làm người quý báu được giảng theo năm cách khác nhau. Trước hết, việc làm người này khó được và vì thế nó quý báu. Thứ hai, chân tánh của tâm thì thuần tịnh tự nguyên thủy, vì lý do này được sinh ra làm người cũng là điều quý báu. Thứ ba, việc sinh ra làm người quý báu có khả năng sâu xa khiến ta có thể sử dụng cuộc đời này để thành tựu giác ngộ và làm lợi lạc cho những người khác. Thứ tư, đó là vật trang sức vĩ đại nhất mà những món trang sức tầm thường khác không thể so sánh được. Thứ năm, sự sinh ra làm người quý báu ấy sở hữu Phật tánh bất di bất dịch. Bởi những lý do này mà nó được gọi là quý báu. Thiền định về sự sinh ra làm người quý báu là pháp chuẩn bị thứ nhất trong bốn chuẩn bị thông thường. Đây là thiền định về tám điều nhàn nhã (tự do) và mười phú bẩm (thuận lợi) của sự sinh ra làm người quý báu.

Việc hiểu biết về sự sinh ra làm người quý báu này thì rất cần thiết không chỉ đối với các hành giả mà còn cho tất cả mọi người. Tôi đã nhận ra điều đó khi giảng dạy cho các thanh thiếu niên rằng điều quan trọng là phải giải nghĩa rõ ràng về vấn đề này. Đáng tiếc là đôi khi có những người trẻ tuổi tự tử. Do đó rất cần phải thấu hiểu tính chất quý báu của đời người. Vì thế tôi đã cố gắng nói về vấn đề này bất kỳ nơi nào tôi đến. Mọi người ở đây đã hiểu rõ về sự quý báu của đời người. Nhưng ở Montreal tôi đã thấy có nhiều người trẻ tuổi tự tử. Giáo lý này nhằm khuyến khích người học Phật Pháp đi vào thực hành và giúp những người khác có thể nhận thức sâu sắc về cuộc đời của họ. Vì thế đây là một giáo lý vô cùng hữu hiệu. Ta có thể sử dụng giáo lý này để có được sức mạnh và năng lực khi gặp những khó khăn và thử thách. Khi ta nhận thức sâu xa về cuộc đời của ta và của những người khác, ta không làm hại bản thân ta và những người khác. Sau khi chấm dứt các việc học tập, tôi đã thực hành ngondro (pháp chuẩn bị). Trong phái Drikung, các thực hành này đựơc bắt đầu bằng những lời cầu nguyện trường thọ tới Đức Phật Amitayus (Phật Vô Lượng Thọ). Sau đó tôi thiền định về bốn chuẩn bị thông thường, mỗi chuẩn bị kéo dài ba tuần. Khi tôi ngồi xuống để thực hành các pháp này, tâm tôi trống rỗng và tôi không biết phải thiền định về cái gì. Vì thế tôi trở lại với các bản văn. Những bản văn mô tả nguyên nhân của sự sinh ra làm người quý báu, cho các ví dụ, giải thích sự hy hữu và bản tánh của đời người. Sau khi thực hành bốn chuẩn bị tôi nhận thấy việc thiền định trở nên dễ dàng. Vì thế điều quan trọng là bạn phải tự giáo dục, tu tập bản thân dựa trên giáo lý này. Mục đích của việc học Pháp là để hỗ trợ cho thực hành. Ngài Vasubhandu (Thế Thân) đã nói: “Bất kỳ nền giáo dục nào chúng ta theo đuổi phải nhằm hỗ trợ cho thiền định.”

Như vậy, thế nào là một cuộc đời tâm linh? Ta có một cuộc đời tâm linh khi ta sống để làm lợi lạc chúng sinh và hoàn toàn tiệt trừ những cảm xúc phiền não. Hình thức thực hành của chúng ta là hình thức của một yogi (hành giả) hay yogini (nữ hành giả) cư sĩ. Chúng ta giữ năm giới nguyện biệt giải thoát của một cư sĩ. Có bảy phạm trù giới nguyện biệt giải thoát: những giới nguyện của tăng ni thọ cụ túc giới, những giới nguyện của các sa di và sa di ni, những giới nguyện của cư sĩ nam và cư sĩ nữ, và giới nguyện trong một ngày. Tất cả những giới nguyện được thọ với mục đích làm lợi lạc chúng sinh. Là con người, chúng ta cần có thực phẩm, quần áo, và nơi trú ẩn. Theo truyền thống, điều cần thiết thứ tư là một con ngựa. Và để có được những điều này chúng ta cần có một việc làm. Mục đích của cuộc đời là hạnh phúc. Hạnh phúc không chỉ đến từ bên ngoài. Hạnh phúc đến từ bên ngoài thật hạn hẹp. Hạnh phúc nội tại to lớn hơn nhiều. Nhưng chừng nào mà những hoạt động của chúng ta không lấn át thời giờ để thiền định thì hai loại hạnh phúc này không mâu thuẫn nhau. Hãy đơn giản, dịu dàng và tốt lành. Điều đó có vẻ bao gồm mọi sự. Đối với một hành giả như chúng ta, không những ta phải thấu hiểu cuộc đời quý báu ra sao, mà còn phải hiểu rằng nó thật vô thường. Mọi sự đều thay đổi. Mục đích của việc thiền định về lẽ vô thường là dùng nó như một cách đối trị cho tánh lười biếng. Thiền định này cũng được dùng làm một phương thức đối trị cho tánh tham luyến. Khi chúng ta thoát khỏi tham luyến, tâm thức chúng ta trở nên mạnh mẽ và tự do. Thân xác chúng ta có thể ở trong sinh tử nhưng tâm chúng ta thì tự do tự tại. Giáo lý về sự vô thường là cốt tủy của Pháp. Giáo lý này giải thoát chúng ta khỏi sự tham luyến, sân hận và ganh ghét. Sự vô thường đối trị tánh bám chấp. Chúng ta bám chấp vào những niệm tưởng bởi ta không nhận ra rằng chúng thì vô thường. Do đó, tâm ta bị tham luyến trói buộc. Khi một niệm tưởng khởi lên, nó sẽ biến mất khi bạn nhận thấy nó vô thường. Vì thế có một mối liên hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu xa lẽ vô thường và thiền định.

Chúng ta cũng phải nghĩ tưởng rằng những cuộc đời khác cũng quan trọng. Là một người ăn chay thật không dễ dàng, bởi lẽ bạn cần phải học tập về khoa dinh dưỡng. Tôi mất một năm học tập để trở thành một người ăn chay bởi tôi phải học tất cả về điều này. Việc ăn chay tích tập công đức to lớn và giảm thiểu khả năng bị bệnh tật. Vì nhiều lý do, trở thành một người ăn chay thì thật lợi lạc.

Hỏi: Con đọc được rằng một trong những lời nguyện của Đức Phật Dược Sư là giúp cho phụ nữ được tái sinh làm người nam trong đời sau? Điều ấy có tính chất văn hóa không?

Đáp: Có lẽ điều ấy có tính chất văn hóa. Đây có thể là một giáo lý thiết thực. Tôi không quen thuộc với lời nguyện đó. Các bậc cha mẹ nên tạo cơ hội đồng đều cho tất cả con cái của họ. Tôi đã hướng dẫn một chuyến du hành tới Ấn Độ và khi chúng tôi ở Dehra Dun, vấn đề ni giới được đặt ra. Họ đã để ý rằng các sư cô phải sống trong những điều kiện tệ hại hơn. Khi tôi tới Arizona tôi được mời tới một sweat lodge - lều tẩy tịnh - (1) để cầu nguyện. Những người đàn bà vào lều trước rồi mới tới đàn ông. Tôi cho rằng điều này thật vĩ đại. Vợ tôi đã kể cho tôi nghe biết bao nhiêu vấn đề về sức khỏe mà phụ nữ gặp phải ở Tây Tạng. Phật Giáo đã nói rõ rằng để đạt được giác ngộ, những người nam và nữ đều có cơ hội như nhau. Vì thế mọi cuộc đời đều đặc biệt.

Hỏi: Khi Thầy còn là một cậu bé và gia nhập tu viện, thầy có nhận thức sâu sắc về giá trị của việc có thể thực hiện được điều đó?

Đáp: Phần đông các hành giả trẻ tuổi không nhận thức được điều này. Đối với họ đó là một việc thuộc về văn hóa. Chỉ một thiểu số là có động lực tâm linh. Thông thường thì ở Tây Tạng một đứa trẻ trở thành một tăng hay ni. Trong trường hợp của tôi, tôi rất quan tâm tới việc gia nhập tu viện.

Hỏi: Khi thiền định con thấy có nhiều niệm tưởng khởi lên. Thầy có thể giải thích làm cách nào để buông bỏ chúng?

Đáp: Trong thời gian thiền định điều gì đó có thể xuất hiện. Nhưng bản tánh của tâm thì vẫn hiện diện ở đó. Đừng lấy hay bỏ bất kỳ điều gì. Bạn nên thoát khỏi những nghi ngờ và hy vọng. Mọi sự phát khởi thì không thể tách lìa bản tánh của tâm. Nếu trước tiên bạn cầu nguyện Lạt ma hay Bổn Tôn của bạn thì các ngài có thể cứu giúp bạn. Ngài Gampopa đã nói như thế. Hãy gắn bó với những sự xuất hiện như một đứa trẻ đã làm. Những sự xuất hiện ấy chỉ là một chướng ngại nếu bạn bám chặt vào chúng hay xua đuổi chúng đi. Điều quan trọng là phải nhẫn nại. Lòng bi mẫn thì cũng cần thiết. Và bạn phải kiên trì. Trong hậu thiền định bạn phải thực hành chánh niệm./.

Chú thích:

(1) sweat lodge: Túp lều hay nhà nghỉ được dùng trong nghi lễ tịnh hóa. Lúc ban đầu, các Thổ dân ở châu Mỹ đã sử dụng nghi lễ này. Đối với họ đây là một buổi lễ đầy ý nghĩa. Ngày nay nghi thức này trở nên phổ biến trong những nhóm người không phải là người da đỏ. Những người này nhận ra nghi thức tẩy tịnh có lợi cho sức khỏe cũng như tâm linh của họ.

Nguyên tác: “Precious Human Birth”
by Lama Gursam
http://www.lamagursam.org/precious_human_birth.html
Xin đọc thêm:
- Một Đời người Quý báu
/tuyentapxuan-86.htm
- Đừng Bỏ phí Cơ hội Thực hành Pháp
/dungbophicohoithuchanhphap.htm
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/09/2012(Xem: 4523)
Khi đức Phật du hóa tại nước Di-hy-La, Ngài ngụ trong vườn Am-La. Bấy giờ có thiếu phụ tên là Bà-tứ-Tra có năm người con chết liên tiếp trong mấy năm. Vì qúa nhớ thương buồn rầu, nên khi đứa con thứ năm vừa chết xong, bà phát điên, xõa tóc, xé rách hết quần áo, chạy rong cùng đường kêu la, khi cười khi khóc, lúc nói lảm nhảm một mình.
14/09/2012(Xem: 4845)
Kinh Lăng Nghiêm là một trong những bộ Kinh tinh túy cốt lõi thuộc truyền thống Kinh điển đại thừa Bồ Tát đạo trong Phật Giáo. Tinh thần Bồ tát là tinh thần cầu thành Phật, phổ độ chúng sanh, tinh thần ấy không phân biệt giữa hai giới tại gia hay xuất gia. Đã là Phật tử, tức phải xác định mục đích tấn tu duy nhất, mục đích đó là phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo. Trong lời tựa tán thán Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan phát nguyện “ngũ truợc ác thế thệ tiên nhập”, lời phát nguyện đó cũng chính là lời phát nguyện cho mỗi người Phật tử trên con đường tu tập.
14/09/2012(Xem: 5342)
Phật dạy các pháp đều từ tâm sanh, dù vậy cảnh vật bên ngoài vẫn là hiện hữu. Tuy nhiên sẽ không có cảnh tượng nếu không có tâm tưởng. Những giác quan chính của con người từ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) đều như thế. Sỡ dĩ ta có thể nhận thức được mọi thứ là do căn tiếp xúc với trần, rồi dùng thức để phân biệt nhận lãnh. Nếu không như vậy ta không thể nhận biết được gì.
14/09/2012(Xem: 5362)
Khi nói đến tu là nói đến chuyển hóa Tâm thức trong mỗi con người chúng ta, đó là điều quan trọng nhất. Có hai mức độ chuyển hóa, mức độ thứ nhất là phát tâm từ bi thương hết tất cả chúng sanh, mức độ thứ hai là tập hoán chuyển giữa Mình và Người, còn gọi là thực tập pháp tu Cho và Nhận.
06/09/2012(Xem: 3812)
Khi đức Phật du hóa đến núi Tỳ-ha-La, thuộc thành La-duyệt-Kỳ, Ngài trú ngụ trong động cây Thất-diệp (Sau này tập kết Kinh Luật ở đây); có một vị Cư-sĩ tên là Tán-đà-Na thuộc thành La-duyệt-Kỳ, cứ mỗi ngày thường đến chỗ Phật ngụ. Một hôm trên đường đi, Cư-sĩ Tán-đà-Na nhìn bóng mặt trời thấy còn sớm, vì Cư-sĩ nghĩ rằng đức Phật còn đang nhập định, và các vị Tỳ-kheo cũng còn đang thiền-định; nghĩ như vậy, nên Cư-sĩ Tán-đà-Na tạm thời tạt vào nghỉ chân tại rừng Ô-tạm Bà-Lợi.
01/09/2012(Xem: 4531)
Một hôm đức Phật vào thành A-Nậu-Di khất thực, nhưng vì còn sớm, nên Ngài ghé vào vườn chỗ cư ngụ của Phạm-chí Phòng-già-Bà, để đợi đến giờ rồi mới đi khất thực; lúc đó, Phạm-Chí từ xa trông thấy đức Phật đi đến liền ra nghênh đón và nói: - Chào Cù-Đàm, qúy hóa thay đức Cù-Đàm; từ lâu không đến, nay Ngài chiếu cố chắc là có chuyện gì, kính mời Ngài ngồi chỗ này.
23/08/2012(Xem: 4847)
Khi đức Phật du hoá tại phiá bắc thôn Thâu-lô-Tra, thuộc nước Câu-Lâu-Sấu, bấy giờ các người trong thôn nghe tin: “Sa-môn Cù-Đàm, con Vua dòng họ Thích, lià bỏ tông-tộc, xuất gia học đạo, đang trú ngụ trong vườn Nhiếp-hoà; vị Sa-môn ấy có tiếng tăm lớn đồn khắp mọi nơi là bậc đắc đạo, là thầy của Trời và Người, thuyết pháp vi diệu chưa từng có”, nên họ rủ nhau cùng đến gặp Ngài để lễ bái cúng dường.
18/08/2012(Xem: 8462)
Anh chị em thân mến, đặc biệt là người thân hữu lâu năm Jim[1]. Thật sự tôi rất vui mừng được đến đây để gặp gở mọi người. Một số là người thân quen đã lâu, và hầu hết các vị là mới. Tôi cảm thấy rất quan trọng để gặp gở và chia sẻ một số quan điểm của tôi, chính yếu là những kinh nghiệm của riêng tôi và cũng như tôi nghĩ là một số quán chiếu. Tôi nghĩ ở đằng ấy, những sinh viên trẻ tuổi mà tôi cho là tôi có kinh nghiệm hơn (cười). Các bạn chỉ vừa mới bắt đầu một cuộc đời thật sự, còn tôi đã sắp nói lời giả biệt, bye bye (cười).
18/08/2012(Xem: 4342)
Một hôm, đức Phật dạy các Tỳ Kheo: - Thuở xưa, Chư Thiên đánh nhau với Thần A Tu la. Thích Đề Hòan Nhân (Vua trời Đế Thích) ra lệnh cho Chư Thiên Đạo Lợi: “- Các Ông đánh nhau với Thần A Tu La, làm sao bắt được Vua Thần A Tu La, hãy dùng 5 sợi dây trói lại, đem về giảng đường Thiện Pháp, ta muốn thấy mặt nó.”
16/08/2012(Xem: 4877)
Một số người theo thuyết Nhất thần giáo thành lập niềm tin vào "Thiên chúa" trong nhiều Tôn giáo. Nhiều người tự cho Tôn giáo mình là Hữu thần-Bất khả tri (Agnostic), và những người khác vui vẻ tự nhận mình là Vô thần (Atheist). Một vài giáo phái Bất khả tri luận cũng là Phật tử, và một số họ tin vào "những tầng trời" và "những cõi địa ngục". Tuy nhiên những Phật tử này tránh từ “G" (God) trong tất cả tình huống. Vậy thì Phật tử theo chủ thuyết Bất khả tri luận có thể chấp nhận “Thiên chúa” không?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]