Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lợi ích và tác dụng của cầu siêu

04/11/201003:11(Xem: 5023)
Lợi ích và tác dụng của cầu siêu


lotus_4



Lợi ích và t
ác dụng của cầu siêu


Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo gia hộ cho thần thức người đã mất được nhẹ nhàng, siêu thoát về các cõi lành. Trong kinh Địa Tạng có nói rõ tác dụng của sự cầu nguyện cho người chết rằng: Trong 7 phần công đức, người cầu siêu được hưởng sáu phần, người chết chỉ hưởng được một phần mà thôi.

Tại sao người chết chỉ hưởng được một phần? Điều này dễ hiểu thôi, vì khi tụng kinh để cầu siêu, người tụng kinh phải tập trung cao độ để lắng tâm trong sạch, nên ngay khi đó ba nghiệp thân, miệng, ý được thanh tịnh; miệng đọc lời kinh, tai lắng nghe và ý chỉ chú tâm vào lời kinh; do đó, phát sinh năng lực công đức trước nhất là cho người tụng, rồi những người tụng đó sử dụng năng lượng công đức ấy để hướng đến người đã chết. Vì vậy, người mất chỉ nhận được một phần tâm linh thanh tịnh ấy mà thôi.

 Như trường hợp của Tôn giả Mục Kiền Liên, sau khi xuất gia làm đệ tử Phật, nhờ siêng năng, tinh cần tu tập, nên Tôn giả đã chứng quả giác ngộ giải thoát. Vì nhớ thương mẹ mình sau khi chết không biết tái sinh nơi đâu, Tôn giả vận dụng thần thông tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng thấy mẹ đang bị đọa trong loài quỷ đói, thân thể tiều tụy, ốm o gầy mòn, đói khát, vật vờ, trông rất thảm thương.

 Động lòng thương xót mẹ, Tôn giả trở lại trần gian xin được một bát cơm, hai tay cung kính dâng lên mẹ. Bà Thanh Đề thấy bát cơm mừng quá vì đói khát lâu ngày, nên vội vàng lấy một tay che bát cơm lại, sợ các quỷ khác thấy xin ăn, tay còn lại bà bốc cơm ăn. Nhưng nghiệt ngã thay, bỗng dưng cơm hóa thành lửa, bà ăn không được, trong lòng thèm khát, khổ sở vô cùng, làm cho Tôn giả xúc động, nghẹn ngào mà hai hàng lệ rơi. Bát cơm của Tôn giả dâng lên cho mẹ bằng tất cả tấm lòng, tưởng làm no lòng mẹ, ngờ đâu cơm hóa thành lửa ăn không được, nên bà phải chịu khổ sở, đớn đau vô cùng.

 Bà Thanh Đề lúc còn sống, vì không tín kinh Tam bảo, nên lúc nào cũng tham lam, bỏn sẻn, keo kiết, ích kỷ, không biết bố thí hay giúp đỡ cho ai, nên sau khi chết phải bị đọa vào loài quỷ đói. Nhìn cảnh mẹ đói khát, khổ sở, mà không có cách nào giúp được, Tôn giả đành thương xót, ngậm ngùi trở về bạch Phật tìm cách cứu mẹ.

 Phật dạy, “nhân mùa an cư kiết hạ và lễ tự tứ của chư Tăng, ông hãy phát tâm cúng dường trai Tăng, nhờ công đức tu hành của đại chúng, vì đa số quý thầy tâm thanh tịnh, trong sáng, nên có thể làm cho mẹ ông thức tỉnh, buông xả tâm ích kỷ nhỏ nhoi, mà được thác sinh về cõi an lành”.

 Tôn giả nghe lời Phật dạy, trở về quê nhà, vận động gia đình, người thân phát tâm tịnh tài, tịnh vật cúng dường trai tăng; nhờ vậy, mẹ Ngài thoát khỏi quỷ đói, sinh về cảnh giới an lành. Nhìn từ góc độ thực tế cuộc đời loài quỷ đói cũng có trong loài người, người hay thiếu trước hụt sau, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, chết đói chết khát, bị gông cùm xiềng xích.

 Người giàu có chứa nhiều của cải, để cho mục nát, hư hại, mà không dám đem ra giúp người, cứu vật, hoặc đã giàu rồi mà còn tham lam tìm cách vơ vét về cho riêng mình. Tâm ham muốn và thèm khát quá đáng cũng là loài quỷ đói. Chúng ta làm người, hãy nên chiêm nghiệm, suy xét kỹ chỗ này. Thà rằng một miếng khi đói bằng một gói khi no, cúng dường, hồi hướng công đức cho những người đã mất, sẽ được lợi ích lớn lao như vậy.

 Tại sao bà Thanh Đề được siêu thoát nhờ lực thanh tịnh của chư Tăng? Ở đây, có hai điểm chúng ta cần phải lưu ý và suy xét. Thứ nhất, nhờ sức thanh tịnh của chư tăng hướng tâm về bà, làm bà thức tỉnh, biết nhân dính mắc, tham chấp, hại người, hại vật là khổ đau; do đó, bà liền được sinh về cõi an lành. Trường hợp thứ hai, nếu trong nhiều đời và hiện tại, bà không gieo nhân phước đức, thì dù có chư Phật hộ trì cũng không thể nào cứu được bà.

 Như trong kinh đã nói, nếu một người tạo mười nghiệp ác như giết hại, trộm cướp, lường gạt, tà dâm, phá hoại hạnh phúc gia cang của người khác, nói dối hại người, nói lời mắng chửi, nói lời mê hoặc dụ dỗ, nói lời đòn xóc hai đầu, tham lam quá đáng, nóng giận đánh đập và cuối cùng là si mê, thì ví như tảng đá lớn quăng xuống nước sâu, dù có ngàn người cầu cho nó nổi lên vẫn không được.

 Điều chính yếu của sự cầu nguyện trong đạo Phật là sự chuyển hoá và thay đổi nghiệp lực. Nếu mình đã gây quá nhiều ác nghiệp, thì việc cầu nguyện là vô ích. Cầu nguyện theo cách thức chuyển ác thành thiện, thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật khuyến khích và chấp nhận, nhằm giúp cho những người chưa đủ niềm tin về nhân quả và chính mình, để họ có chỗ hướng tâm mà từng bước quay về con đường thiện lành tốt đẹp.

 Cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, người thân, còn nói lên ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn và đền ơn đối với các liệt vị tiền nhân đã sinh ra và nuôi dưỡng ta nên người. Chim có tổ, người có tông, ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn là chân lý đạo đức làm người. Con người nếu không biết rõ cội nguồn, giống như cây bị bứng gốc rễ. Cho nên, cầu nguyện, cúng bái, tưởng nhớ ông bà cha mẹ, bà con thân quyến, nói lên sự kết nối yêu thương, mong cho họ được siêu thoát là bài học đạo lý hiếu thảo, thể hiện sự biết ơn và đền ơn, đã ăn sâu vào trong tâm thức của con người Việt Nam.

 Tuy nhiên, theo lời dạy của Thế tôn trong kinh cúng thí người mất, chỉ khi nào cha mẹ người thân bị đọa vào cảnh giới quỷ đói, thì sự cúng thí đó mới được tương xứng và người đó được thọ nhận thức ăn cúng thí. Ngoài ra, những người nào sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục, súc sinh, người, thần Tu La và chư thiên, thì không nhận được các thức ăn đó. Chính vì vậy, trong kinh Địa tạng nói người mất chỉ hưởng một phần là lý do đó, còn chúng sinh trong các loài khác, đã có thức ăn phù hợp với hoàn cảnh tương xứng rồi.

 Sự cầu siêu chỉ mang tính cách biểu tượng, thể hiện tấm lòng thương kính và biết ơn đối với người đã chết; về phương diện đạo đức, nhằm nhắc người đã mất không bám víu vào gia đình, vợ con, tiền bạc, tài sản, để dễ dàng ra đi và tái sinh cõi an lành. Cúng bái, tổ tiên ông bà, cha mẹ theo tinh thần biết ơn và đền ơn, thì người sống và kẻ mất đều được lợi lạc, là nét đẹp văn hóa tâm linh của người cư sĩ tại gia và đạo pháp dân tộc.

 Nói tóm lại, đối với nghi thức cầu siêu, cũng nên giản đơn mà trang trọng, tránh mọi sự rộn ràng không cần thiết, có thể làm cho vong linh người thân dao động, luyến ái, hoặc tức giận nên khó siêu sinh Tịnh độ, hoặc tái sinh vào các cõi an lành. Nếu có thể, hạn chế sự khóc lóc làm ảnh hưởng đến người chết, không nên tổ chức nhạc kèn trống, hoặc tất cả những hình thức phô trương lãng phí. Lại càng không nên mở tiệc tùng, giết trâu bò, heo gà, uống rượu, cờ bạc sáng đêm, rồi nói rằng “thức để canh đám ma”.

 Thay vào tất cả những hình thức không có lợi ích thiết thực, chúng ta nên mời chư Tăng đến khai thị, nhắc nhở, khuyên nhủ, niệm Phật, tụng kinh, làm nhiều Phật sự thiện ích, như phóng sinh, bố thí, cúng dường Tam bảo và bố thí giúp đỡ người bệnh tật già yếu, nhằm chia sẻ và nâng đỡ để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh. Cúng thí cầu nguyện như vậy là thể hiện tình người trong cuộc sống, bằng sự kết nối yêu thương; kẻ âm, người dương đều được lợi ích.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/04/2012(Xem: 3889)
Người niệm Phật mà được sự hộ niệm của chư Phật, nhiếp trì nguyện lực của Phật A Di Đà thì lúc mạng chung vào thẳng ngôi bất thoái, tự giác tiến tu thẳng đến thành Phật. Kinh A Di Đà nói: “Những chúng sinh sinh lên nước ta đều là bất thoái chuyển, trong số đó có rất nhiều người một đời được bổ xứ làm Phật, số ấy rất nhiều, không thể tính đếm hết được”. Suy xét câu một đời được bổ xứ thành Phật, tức là thân sau chót, như vậy há không phải một đời tức được thành Phật sao?
05/04/2012(Xem: 4990)
Chính là con người có một cảm nhận đáng giá về cái "tôi" và đồng hành một cách tự nhiên từ cảm nhận ấy mà chúng ta muốn theo đuổi hạnh phúc và lẫn tránh khổ đau. Đây là quyền lợi bẩm sinh của chúng ta, và điều không cần phải bàn cải gì hơn nữa. Những chúng sinh khác cũng mong ước được tự do khỏi khổ đau, vì thế nếu chúng ta có quyền vượt thắng khổ đau, thế thì những chúng sinh khác tự nhiên cũng có cùng quyền con người như vậy. Vậy thì điều gì là sự khác biệt giữa tự thân và người khác? Có một sự khác biệt lớn lao con số, nếu không phải là bản chất. Những người khác là con số nhiều hơn ta vô cùng. Ta chỉ là một, và con số của những chúng sinh khác là vô hạn.
03/04/2012(Xem: 3936)
Lúc bình thường tại sao cần phải niệm Phật? Vì bình thường niệm Phật là để chuẩn bị cho khi lâm chung. Tại sao không đợi đến lâm chung mới niệm Phật? Vì hằng ngày niệm Phật chính là để huân tập hạt giống Phật vào trong tâm của bạn. Nếu bạn niệm mãi thì trải qua thời gian, hạt giống đó lớn dần lên trong mảnh đất tâm của bạn và đưa bạn đến kết quả giải thoát giác ngộ. Nếu bình thường bạn không niệm Phật thì bạn không biết gieo hạt giống Phật vào mảnh đất tâm của mình. Khi lâm chung, thần trí rối loạn thì làm sao nghĩ đến Phật mà niệm được chứ. Tại sao vậy? Vì hiện tại không thường xuyên niệm Phật. Do đó, hằng ngày cần phải niệm Phật, lạy Phật, tu pháp môn Tịnh độ. Được như thế thì hiện tại được bình an, khi lâm chung không bị hôn mê tán loạn lại được tự tại vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc.
03/04/2012(Xem: 4287)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm, muốn được vậy phải có 3 điều kiện: *TÍN # ĐỊNH # THỂ (thuộc tâm) *HẠNH # GIỚI # TƯỚNG (thuộc thân) * NGUYỆN # TUỆ # DỤNG (diệu dụng của tâm)
03/04/2012(Xem: 6493)
Xác thân chết nhưng linh hồn còn chuyển biến liên tục mãi mãi. Lúc hấp hối hiện ra những việc thiện, ác hay vô ký (không thiện không ác) đã làm trong cuộc sống. Nếu tắt thở hiện ra việc thiện thì tái sanh về cõi thiện (người, trời) ; hiện ra việc ác thì tái sanh về cõi ác (địa ngục, ngạ quỷ, atula). Tốt nhất, chúng ta niệm Phật niệm Phật được nhất niệm và phát nguyện vãng sanh sẽ được Phật tiếp dẫn về Tây phương Cực lạc, vĩnh viễn thoát luân hồi sinh tử khổ. Phương cách niệm lục tự A Di Đà được nhất niệm thông qua 6 căn :
26/03/2012(Xem: 5868)
Để phát sinh lòng từ ái chân thật, chúng ta cần biết nó khác biệt với luyến ái như thế nào. Lòng yêu thương và trắc ẩn thông thường quyện kết với luyến ái, bởi vì động cơ của chúng là vị kỷ: chúng ta quan tâm đến những người nào đấy bởi vì họ tạm thời giúp đở chúng ta và người thân của chúng ta.
21/03/2012(Xem: 3739)
Về nhà chỉ có một lối, nhưng phương tiện thì có nhiều ngả. Phật dạy có nhiều pháp môn tu, nhưng chuyên tu một pháp môn nào cũng đều được liễu ngộ cả. Tập “Pháp môn niệm Phật” này, chuyên nói về sự niệm Phật. Hành giả nào muốn mau thành Phật không gì qua niệm Phật. Nên biết sáu chữ Hồng danh chẳng luận già trẻ, trai gái, sang hèn, nghèo giàu, kẻ mua gánh bán bưng, kẻ đi bộ, người chèo thuyền, đều niệm Phật được. Nhưng phải phát nguyện sau khi lâm chung thần thức được vãng sanh về Cực lạc, liên hoa hóa sanh. Lại nữa, ai là người muốn giải thoát sanh tử luân hồi, muốn viên mãn phước huệ, những ai phát Bồ-đề tâm cầu thành Phật, nguyện độ chúng sanh, đều phải chuyên tu niệm Phật.
19/03/2012(Xem: 9832)
Một thái độ từ ái vị tha chỉ có một khuôn mặt, ân cần tử tế đến tất cả. Tuy nhiên, sự vị tha này giúp ích người khác và chính mình, cả hiện tại bây giờ và trong tương lai dài lâu. Như một vi lạt ma Tây Tạng Kunu Tenzin Gyelsten đã nói, "nếu con muốn là một người thân hữu của tất cả, hãy phát sinh lòng từ ái và bi mẫn. Nếu con muốn là một người hướng dẫn tâm linh cho tất cả mọi người, hãy phát sinh lòng từ ái và bi mẫn. Nếu con muốn giúp ích mọi người, hãy phát sinh lòng từ ái và bi mẫn."
04/03/2012(Xem: 7611)
Khi chúng ta đã quán chiếu thông khắp những bước trước, nhận ra tất cả chúng sinh như những thân hữu hay người nuôi dưỡng qua sự tương tục của những kiếp sống và đánh giá đúng những sự ân cần có chủ tâm và vô tư, chúng ta sẽ thật sự thấy rằng chúng ta phải đáp lại sự ân cần tử tế của họ. Nhưng chúng ta hổ trợ họ như thế nào? Bất kể loại phồn vinh nào chúng ta có thể đem lại cho họ trong vòng xoay sinh, già, bệnh, và chết, nó sẽ chỉ là tạm thời và nông cạn.
20/02/2012(Xem: 6240)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]