Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lòng Bi Mẫn Là Cách Đối Trị Vững Bền Duy Nhất Cho Nỗi Khổ Đau

22/10/201018:35(Xem: 5421)
Lòng Bi Mẫn Là Cách Đối Trị Vững Bền Duy Nhất Cho Nỗi Khổ Đau

LÒNG BI MẪN LÀ CÁCH ĐỐI TRỊ

VỮNG BỀN DUY NHẤT CHO NỖI KHỔ ĐAU
Jetsunma Ahkon Lhamo – Liên Hoa Việt dịch

Một Giáo lý của Jetsunma Ahkon Lhamo

Trong Phật Giáo Kim Cương thừa – là hình thức Phật Giáo được bảo tồn ở Tây Tạng và Mông Cổ và là một tông phái được tu hành ở chùa của tôi – một trong những giáo lý căn bản làsự hiểu biết và thực hành lòng bi mẫn. Cá nhân tôi nhận ra rằng một triết học tôn giáo được đặt nền trên lòng bi mẫn vô ngã mang lại cho ta một sự hài lòng sâu xa và tôi tin rằng nó đánh trúng tình cảm của nhiều người Mỹ.

Tuy nhiên, mặc dù có nhiều người chấp nhận ý niệm bi mẫn như lòng từ ái và một sự quan tâm sâu xa đối với người khác, họ không nhận ra rằng để thể nhập tâm Đại Giác ngộ thì phải cần có một con đường cẩn trọng và kỷ luật. Con người không được sinh ra mà tự động chứng ngộ lòng đại bi. Vì thế, Con Đường Kim Cương có thể được mô tả như một kỹ thuật để phát triển tâm linh.

Đứng ở quan điểm Phật Giáo thì có hai cách thức chính yếu để tiếp cận lòng bi mẫn: bi mẫn ước nguyện và bi mẫn thực tiễn. Khi bắt đầu thực hành Con Đường Kim Cương, ta lập tức bắt đầu lập những nguyện ước, nuôi dưỡng ý tưởng làm lợi lạc cho chúng sinh đang quay cuồng bất lực trong vòng luân hồi sinh tử. Đây là lòng bi mẫn ước nguyện.

Mỗi thực hành ta thực hiện, mỗi giáo lý ta nghe, mỗi quán đảnh ta nhận lãnh, mỗi lời cầu nguyện ta tụng đọc, tất cả có thể được hồi hướng cho sự giải thoát của tất cả chúng sinh khỏi mọi hình thức đau khổ.

Như thế, lòng bi mẫn ước nguyện được thực hành vào lúc bắt đầu bằng cách lập đi lập lại những lời nguyện ước. Những lời nguyện này có ý hướng làm lợi lạc chúng sinh bằng cách phát triển ước muốn chân thành sử dụng toàn bộ các hoạt động của ta – từ hoạt động thế tục cho tới siêu phàm – như một phương tiện để giải trừ những nguyện nhân của đau khổ trong mọi hình thức của nó. Ta nguyện cầu ngừng dứt chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, sự chết và tái sinh, sự cô đơn, tham, sân, và si. Ta chấp nhận một thái độ ý hướng trong sạch được đặt nền trên ý tưởng là mỗi số phận của cuộc đời này, cũng như những hóa thân trong tương lai sẽ tới, bằng cách này hay cách khác có thể mang lại lợi ích cho chúng sinh.

Như một ví dụ của loại nguyện ước này, tôi sẽ giảng rộng một thực hành nổi tiếng:

Nếu cần chất dinh dưỡng, tôi nguyện là thực phẩm. Nếu cần một bóng mát, tôi xin là một tàng cây. Nếu cần nơi trú ẩn, nguyện tôi là một căn nhà. Nếu cần vượt sông suối, tôi nguyện là một cây cầu. Nếu phát sinh bệnh tật, nguyện tôi là bác sĩ, thuốc men hay y tá phục hồi sức khỏe. Cầu mong tôi là đất liền cho người cần có nó, một ngọn đèn cho những ai ở trong tăm tối, một chỗ trú cho kẻ không nhà, và một đầy tớ cho thế giới.

Trong khi điều này nghe có vẻ rất tốt lành và từ ái thì ở đây ý hướng còn sâu xa nhiều hơn chữ nghĩa bề ngoài bởi ta phải nỗ lực làm lợi lạc không chỉ để đáp ứng những nhu cầu trước mắt của chúng sinh, mà cũng mang lại lợi ích trong tương lai. Việc cung cấp những thứ như thực phẩm, nhà ở, và thuốc men dĩ nhiên là tạo nên lợi ích, và loại thiện tâm này thì vô cùng tốt lành. Tất cả chúng ta nên nỗ lực đáp ứng những nhu cầu của người khác bằng những phương cách này. Tuy nhiên từ một viễn cảnh Phật Giáo, ta sẽ không mang lại lợi ích tối thượng nếu chỉ thực hành loại bi mẫn này. Ví dụ nếu có thể nuôi dưỡng toàn thể một quốc gia hay thậm chí cả một thế giới và hoàn toàn diệt trừ nạn đói và sự vô hy vọng, chúng ta vẫn không giải quyết được cội gốc của vấn đề.

Theo Đức Phật thì không có điều kiện hay hoàn cảnh nào mà không có một nguyên nhân. Giống như không có trái cây nào xuất hiện mà trước hết không hiện ra trên một thân cây đến từ một hạt giống, cũng không có hoàn cảnh nào, dù xấu hay tốt, mà ta thấy xuất hiện không có một nguyên nhân. Những nguyên nhân ấy có thể không chỉ được tìm thấy trong đời này, mà còn có thể đến từ những đời trước.

Không thể có việc người ta ngẫu nhiên bị sinh vào một hoàn cảnh khó khăn hay thình lình trải nghiệm sự bắt đầu của nỗi khổ hay một biến động khủng khiếp. Những sự kiện này luôn luôn là kết quả của một tấm thảm thêu của những mối quan hệ nhân-và-quả (nghiệp) được dệt xung quanh ảo tưởng bao hàm sự xác định và duy trì một bản ngã. Như vậy, việc giải quyết những nhu cầu lập tức của chúng sinh có thể mang lại một sự thuyên giảm nào đó, nhưng không có gì bảo đảm là họ sẽ không trải nghiệm những khó khăn to lớn trong tương lai, bởi nó không phá vỡ được sự tương tục của nhân và quả chín mùi bất ngờ và liên tục. Sự tương tục này bắt nguồn từ niềm tin vào một bản ngã và sự tham muốn là kết quả của niềm tin đó. Chính bằng cách làm nguôi dịu sự tham muốn mà ta có thể bắt đầu chuyển hóa nghiệp của ta. Khi ảo tưởng bản ngã bắt đầu tan biến thì nghiệp cũng bắt đầu biến mất. Nhưng nếu dòng tâm thức không được lọc sạch nghiệp của sự đau khổ thì tiềm năng cho sự đau khổ vẫn còn tồn tại.

Chúng ta được nuôi dưỡng để tin rằng thực tại đó có thể được vận dụng. Những thư viện của chúng ta chất đầy những quyển sách thuật lại sự thành công của các vĩ nhân người Mỹ. Những câu chuyện này có khuynh hướng nói về những thành công về mặt vật chất. Nhưng người khao khát tâm linh phải hỏi: Thành công này liệu có kéo dài không? Cho dù nó kéo dài suốt một đời, nó có sống sót qua cái chết? Nếu chúng ta có quyền mang lại hòa bình cho thế giới, giải trừ quân bị các quốc gia và duy trì trật tự cùng sự hòa hợp, thì liệu nền hòa bình đó có tồn tại lâu hơn cuộc đời ta? Nhiều vị lãnh đạo đã cạn kiệt cuộc đời họ trong việc tạo lập những cường quốc và đế chế chỉ để bị hủy diệt không lâu sau khi họ chết.

Để mang lại cho chúng sinh lợi ích tối thượng của việc thoát khỏi mọi đau khổ, ta phải áp dụng kỹ thuật tối hậu. Nguyện ước làm lợi lạc cho chúng sinh, nuôi dưỡng ý hướng trong sạch, liên tục gìn giữ thiện tâm của con người, lập những lời ước nguyện, và từ tận sâu thẳm của tâm hồn và trái tim ta, thường xuyên hy vọng mang lại lợi ích vững bền cho người khác, là những thực hành để phát triển lòng bi mẫn. Tuy nhiên ở một thời điểm nào đó thì bước nền tảng phải được thực hiện. Nó bắt đầu với việc nhận ra rằng hạnh phúc nhất thời thì không đủ, việc nuôi dưỡng và cung cấp y phục cho chúng sinh cùng những hành động khác xuất phát từ lòng tốt thì không đủ. Những điều này không thể phá hủy sự tất định của cái chết là điều áp đặt lên con người và vượt quá khả năng của ta. Làm sao chúng ta có thể theo họ đi vào những hóa thân trong tương lai để bảo đảm cho sự an toàn của họ?

Chỉ có một cách duy nhất để làm ngừng lại sự chín mùi của những hạt giống đau khổ, đó là sự Giác ngộ, nó làm tan biến niềm tin vào bản ngã, làm nguôi dịu mọi mối quan hệ nhân-và-quả hay nghiệp, và khám phá bản tánh nguyên sơ chân thực của ta. Con đường Kim Cương sử dụng nhiều kỹ thuật để tịnh hóa năm giác quan và tự thân dòng tâm thức. Khi ta dấn mình vào những thực hành này, không chỉ vì lợi lạc của riêng ta mà cũng để tịnh hóa nghiệp và nỗi khổ của người khác, thì phương diện thực tiễn của Tâm Giác ngộ – lòng bi mẫn thực tiễn – được cam kết. Nó “thực tiễn” vì đó là kỹ thuật để hoàn toàn giải thoát bản thân ta và những người khác khỏi những nguyên nhân của sự đau khổ. Những Phật tử coi loại bi mẫn này như hành động của thiện tâm tối thượng.

Mặc dù thiện tâm thông thường là một công việc có giá trị và nên là một phần của hoạt động của tất cả những ai khao khát tâm linh, ta phải quan tâm tới vấn đề lợi ích tối hậu, vấn đề tiệt trừ tận gốc nỗi khổ đau.

Ta nên ghi khắc tận đáy lòng những điều Tôn giả Phật giáo Ấn Độ Shantideva vĩ đại đã viết một ngàn năm trước: “Cầu mong tôi hành động như trái đất vĩ đại hay như bầu trời tự do và rộng mở để nâng đỡ và cung cấp không gian nhờ đó tôi và tất cả chúng sinh có thể phát triển. Cho tới khi mọi chúng sinh bị phiền não bởi đau khổ đạt được bờ bến Niết Bàn, cầu mong tôi chỉ phụng sự như một điều kiện (duyên) để cổ vũ cho sự tiến bộ và niềm hỉ lạc.”

Jetsunma Ahkon Lhamo

Nguyên tác: “Compassion is the only lasting antidote to suffering, A Teaching from Jetsunma Ahkon Lhamo”
http:// tara.org/teachings.htm
Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/09/2012(Xem: 4539)
Khi đức Phật du hóa tại nước Di-hy-La, Ngài ngụ trong vườn Am-La. Bấy giờ có thiếu phụ tên là Bà-tứ-Tra có năm người con chết liên tiếp trong mấy năm. Vì qúa nhớ thương buồn rầu, nên khi đứa con thứ năm vừa chết xong, bà phát điên, xõa tóc, xé rách hết quần áo, chạy rong cùng đường kêu la, khi cười khi khóc, lúc nói lảm nhảm một mình.
14/09/2012(Xem: 4851)
Kinh Lăng Nghiêm là một trong những bộ Kinh tinh túy cốt lõi thuộc truyền thống Kinh điển đại thừa Bồ Tát đạo trong Phật Giáo. Tinh thần Bồ tát là tinh thần cầu thành Phật, phổ độ chúng sanh, tinh thần ấy không phân biệt giữa hai giới tại gia hay xuất gia. Đã là Phật tử, tức phải xác định mục đích tấn tu duy nhất, mục đích đó là phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo. Trong lời tựa tán thán Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan phát nguyện “ngũ truợc ác thế thệ tiên nhập”, lời phát nguyện đó cũng chính là lời phát nguyện cho mỗi người Phật tử trên con đường tu tập.
14/09/2012(Xem: 5363)
Phật dạy các pháp đều từ tâm sanh, dù vậy cảnh vật bên ngoài vẫn là hiện hữu. Tuy nhiên sẽ không có cảnh tượng nếu không có tâm tưởng. Những giác quan chính của con người từ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) đều như thế. Sỡ dĩ ta có thể nhận thức được mọi thứ là do căn tiếp xúc với trần, rồi dùng thức để phân biệt nhận lãnh. Nếu không như vậy ta không thể nhận biết được gì.
14/09/2012(Xem: 5402)
Khi nói đến tu là nói đến chuyển hóa Tâm thức trong mỗi con người chúng ta, đó là điều quan trọng nhất. Có hai mức độ chuyển hóa, mức độ thứ nhất là phát tâm từ bi thương hết tất cả chúng sanh, mức độ thứ hai là tập hoán chuyển giữa Mình và Người, còn gọi là thực tập pháp tu Cho và Nhận.
06/09/2012(Xem: 3851)
Khi đức Phật du hóa đến núi Tỳ-ha-La, thuộc thành La-duyệt-Kỳ, Ngài trú ngụ trong động cây Thất-diệp (Sau này tập kết Kinh Luật ở đây); có một vị Cư-sĩ tên là Tán-đà-Na thuộc thành La-duyệt-Kỳ, cứ mỗi ngày thường đến chỗ Phật ngụ. Một hôm trên đường đi, Cư-sĩ Tán-đà-Na nhìn bóng mặt trời thấy còn sớm, vì Cư-sĩ nghĩ rằng đức Phật còn đang nhập định, và các vị Tỳ-kheo cũng còn đang thiền-định; nghĩ như vậy, nên Cư-sĩ Tán-đà-Na tạm thời tạt vào nghỉ chân tại rừng Ô-tạm Bà-Lợi.
01/09/2012(Xem: 4562)
Một hôm đức Phật vào thành A-Nậu-Di khất thực, nhưng vì còn sớm, nên Ngài ghé vào vườn chỗ cư ngụ của Phạm-chí Phòng-già-Bà, để đợi đến giờ rồi mới đi khất thực; lúc đó, Phạm-Chí từ xa trông thấy đức Phật đi đến liền ra nghênh đón và nói: - Chào Cù-Đàm, qúy hóa thay đức Cù-Đàm; từ lâu không đến, nay Ngài chiếu cố chắc là có chuyện gì, kính mời Ngài ngồi chỗ này.
23/08/2012(Xem: 4890)
Khi đức Phật du hoá tại phiá bắc thôn Thâu-lô-Tra, thuộc nước Câu-Lâu-Sấu, bấy giờ các người trong thôn nghe tin: “Sa-môn Cù-Đàm, con Vua dòng họ Thích, lià bỏ tông-tộc, xuất gia học đạo, đang trú ngụ trong vườn Nhiếp-hoà; vị Sa-môn ấy có tiếng tăm lớn đồn khắp mọi nơi là bậc đắc đạo, là thầy của Trời và Người, thuyết pháp vi diệu chưa từng có”, nên họ rủ nhau cùng đến gặp Ngài để lễ bái cúng dường.
18/08/2012(Xem: 8511)
Anh chị em thân mến, đặc biệt là người thân hữu lâu năm Jim[1]. Thật sự tôi rất vui mừng được đến đây để gặp gở mọi người. Một số là người thân quen đã lâu, và hầu hết các vị là mới. Tôi cảm thấy rất quan trọng để gặp gở và chia sẻ một số quan điểm của tôi, chính yếu là những kinh nghiệm của riêng tôi và cũng như tôi nghĩ là một số quán chiếu. Tôi nghĩ ở đằng ấy, những sinh viên trẻ tuổi mà tôi cho là tôi có kinh nghiệm hơn (cười). Các bạn chỉ vừa mới bắt đầu một cuộc đời thật sự, còn tôi đã sắp nói lời giả biệt, bye bye (cười).
18/08/2012(Xem: 4375)
Một hôm, đức Phật dạy các Tỳ Kheo: - Thuở xưa, Chư Thiên đánh nhau với Thần A Tu la. Thích Đề Hòan Nhân (Vua trời Đế Thích) ra lệnh cho Chư Thiên Đạo Lợi: “- Các Ông đánh nhau với Thần A Tu La, làm sao bắt được Vua Thần A Tu La, hãy dùng 5 sợi dây trói lại, đem về giảng đường Thiện Pháp, ta muốn thấy mặt nó.”
16/08/2012(Xem: 4901)
Một số người theo thuyết Nhất thần giáo thành lập niềm tin vào "Thiên chúa" trong nhiều Tôn giáo. Nhiều người tự cho Tôn giáo mình là Hữu thần-Bất khả tri (Agnostic), và những người khác vui vẻ tự nhận mình là Vô thần (Atheist). Một vài giáo phái Bất khả tri luận cũng là Phật tử, và một số họ tin vào "những tầng trời" và "những cõi địa ngục". Tuy nhiên những Phật tử này tránh từ “G" (God) trong tất cả tình huống. Vậy thì Phật tử theo chủ thuyết Bất khả tri luận có thể chấp nhận “Thiên chúa” không?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]