Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật đã dạy những gì?

08/04/201311:56(Xem: 16382)
Đức Phật đã dạy những gì?

ĐỨC PHẬT ĐÃ DẠY NHỮNG GÌ

Hòa thượng Walpola Rahula

dpdng-bia1Thích Nữ Trí Hảidịch(1998)dpdng-bia2

Nguyên tác: "What The Buddha Taught"
(Tựa đề lần xuất bản thứ nhất, 1966: "Con đường thoát khổ")

 






Lời giới thiệu ^

Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.

Nói một cách khác, không có Đại thừa hay Tiểu thừa, không có Nam tông hay Bắc tông. Sở dĩ có phân chia tông phái là vì sự diễn biến của lịch sử và sự truyền bá của đạo Phật qua nhiều truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, quốc độ khác nhau và tông phái nào cũng chấp thuận một số giáo lý căn bản chung cho tất cả truyền thống. Quyển sách này là một sự cố gắng của tác giả để giới thiệu những giáo lý căn bản ấy và những ai muốn tìm hiểu đạo Phật cũng cần phải hiểu biết ít nhất số giáo lý căn bản ấy. Riêng đối với Phật tử Việt Nam một số lớn được học ngay vào kinh điển Đại thừa, lại cần phải hiểu giáo lý căn bản này để soi sáng lại sự hiểu biết của mình và để tìm lại sự liên tục của quá trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Riêng đối với sinh viên Đại học Vạn Hạnh, tài liệu của tập sách này cần được xem là tài liệu căn bản và tối thiểu để xây dựng nền tảng Phật học của mình.

Quyển sách này viết cho giới trí thức Âu Mỹ, một giới trí thức có một bối cảnh khoa học và văn minh Cơ đốc giáo, nên các vấn đề thảo luận, phương pháp trình bày rất thiết thực, linh động, sát với thực tế và liên hệ ngay đến đời sống và những thắc mắc hiện đại. Giá trị quyển này phần lớn nhờ ở điểm này. Tác giả dẫn chứng rất nhiều lời dạy trong kinh điển PÀli để chứng minh cho sự trình bày của mình, một thái độ và một phương pháp khoa học đáng được hoan nghênh và bắt chước. Thường chúng ta trình bày đạo Phật ngang qua sự hiểu biết của chúng ta, và điều nguy hại hơn ngang qua cảm tình và sở thích của chúng ta, và vì vậy nhiều khi tư tưởng và thái độ của đức Phật bị bóp méo, rạn nứt rất nhiều. Để bớt tệ hại này, phương pháp hữu hiệu nhất là dẫn chứng trong kinh điển những lời dạy của chính đức Phật để xác chứng quan điểm của mình trong khi trình bày, một thái độ mà tác giả tập sách này đã theo rất trung thành.

Dịch giả quyển sách này là cô Trí Hải, một tên quá quen thuộc với giới học giả với tài dịch thuật và sự hiểu biết giáo lý căn bản của cô để cần phải giới thiệu dài dòng về cô. Tên của cô cũng đủ bảo đảm cho giá trị dịch thuật của tập sách này rồi.

Saigon, ngày 9-1-1966
Tỳ-kheo Thích Minh Châu
Viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh

--- o0o ---

Lời nói đầu ^

Hiện nay trên khắp hoàn cầu, Phật học càng ngày càng được chú ý. Nhiều hội Phật học và những nhóm học Phật đã ra đời, và nhiều sách viết về giáo lý đức Phật đã xuất hiện. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là tác giả những sách ấy phần nhiều không thực có thẩm quyền trong địa hạt, hoặc đưa ra những giả thuyết sai lầm rút từ những tôn giáo khác, do đó trình bày và giải thích Phật giáomột cách sai lạc. Một vị giáo sư về Tôn giáo tỉ giảo gần đây viết một cuốn sách về Phật giáo, nhưng không biết cả đến điều rằng A-nan, thị giả trung kiên của đức Phật là một Tăng sĩ, và lại tưởng ông ta là một cư sĩ thế tục! Kiến thức Phật học do những cuốn sách như thế truyền bá sẽ ra sao, độc giả cũng có thể tưởng tượng.

Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì. Nhắm vào hạng người này, tôi đã cố trình bày gọn và trực tiếp, những lời của chính đức Phật đã dạy, như được thuật lại trong Tam tạng Pàli mà các học giả đều xem là tư liệu cổ xưa nhất còn tồn tại về giáo lý Phật. Tài liệu và những trích dẫn trong sách này đều rút từ tạng kinh ấy. Chỉ có vài chỗ tôi sử dụng những trước tác thuộc hậu kỳ.

Tôi cũng nghĩ đến những độc giả đã có một ít kiến thức về giáo lý Phật nhưng muốn khảo cứu thêm. Bởi thế gặp những thuật ngữ nòng cốt, tôi đã chua thêm tiếng Pàli; và cho những đoạn nguyên văn ở phần chú thích, cùng một thư mục chọn lọc.

Công việc của tôi đã gặp phải nhiều khó khăn: suốt tập sách tôi đã cố gắng trình bày cho độc giả Âu châu ngày nay một cái gì họ có thể hiểu được, nhưng không phương hại đến nội dung hay hình thức những lời Phật dạy. Khi viết sách này, tôi luôn luôn nhớ nằm lòng các kinh điển, cố ý duy trì những tiếng đồng nghĩa để sát cạnh nhau, những cách lặp đi lặp lại, một đặc điểm của lời Phật dạy như đã được khẩu truyền đến nay, để độc giả có một ý niệm về hình thức giảng dạy của đức Phật. Tôi đã cố hết mức theo sát nguyên văn, và làm cho lời dịch dễ hiểu.

Nhưng có một giới hạn cho sự giản dị hóa mà nếu vượt qua, chúng ta sẽ dễ đánh mất ý nghĩa đặc biệt mà đức Phật muốn truyền dạy. Vì đã chọn nhan đề là "Phật dạy những gì"(What the Buddha taught)tôi nghĩ cần phải ghi lại chính những lời lẽ của đấng Đạo sư, ngay cả những con số Ngài dùng, thay vì một lối dịch thoát ý có thể dễ hiểu hơn, nhưng lại dễ rơi vào lỗi xuyên tạc ý nghĩa.

Trong tập sách nhỏ này, tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công nhận là giáo lý tinh yếu và căn bản của đức Phật. Đấy là những thuyết Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Ngũ uẩn, Nghiệp báo, Luân hồi, Duyên khởi, Vô ngã (Anatta), Niệm xứ (Satipatthàna). Dĩ nhiên sẽ có những từ ngữ chắc phải lạ lùng đối với độc giả phương Tây. Tôi đề nghị họ nên đọc chương đầu, kế tiếp đọc các chương năm, bảy, tám, rồi sau mới đọc đến các chương hai, ba, bốn, sáu, sau khi đã rõ đại ý. Không thể viết một cuốn sách về giáo lý Phật mà không đề cập những lý thuyết được cả Nguyên thủy (Theravàda) lẫn Đại thừa (Mahàyana) công nhận là căn bản trong tư tưởng hệ Phật giáo.

Danh từ Theravàda- Hinayàna hay "Tiểu thừa" không còn được dùng trong lãnh vực nghiên cứu - có thể dịch là "Tông phái của những bậc Trưởng lão" (Theras); và Mahayànalà "Đại thừa". Đấy là những danh từ dùng để chỉ hai hình thức chính của Phật giáo thịnh hành trên thế giới hiện nay. Theravàdađượcxem như giáo lý chính thống uyên nguyên của Phật, thịnh hành ở Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Lào, Chittagong ở Đông Hồi. Đại thừa phát triển muộn hơn, thịnh hành ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ v.v.. Có vài dị biệt giữa hai phái, về tin tưởng, cách tu hành và giới luật, nhưng cả hai đều nhất trí về những giáo lý quan trọng nhất của đức Phật, như những giáo lý được đề cập trong sách này.

Tôi chân thành cảm ơn Giáo sư E.F.C. Ludowyt người đã gợi ý cho tôi viết sách này, về tất cả sự giúp đở của ông, về những ý kiến ông đề nghị, về việc ông chịu khó đọc lại bản thảo. Tôi cũng cảm ơn cô Marianne Mohn đã coi lại bản thảo và cho những ý kiến giá trị. Cuối cùng tôi xin ghi nhận nơi đây lòng tốt của Giáo sư Paul Demiéville, thầy học của tôi ở Ba Lê, đã đề tựa cho cuốn sách.

Paris, tháng 7-1958
W. RAHULA

--- o0o ---

BẢNG VIẾT TẮT ^

(các kinh Pàli được trích dẫn)

A Anguttara-nikàya, bản in của Hội Pali text.
Abhisamuc Thắng pháp tập yếu của Vô Trước.
D Trường bộ kinh (Colombo, 1929)
DA Sớ giải kinh Trường bộ.
Dhp Kinh Pháp cú
DhpA Sớ giải kinh Pháp cú
Lanka Kinh Lăng già (Kyoto, 1923)
M Kinh Trung bộ
MA Kinh sớ Trung bộ
Madhyakari Trung quán luận kệ của Long Thọ
Mh-Sutralankara Mahàyàna-sùtràlankàra của Vô Trước (Paris, 1907)
Mhvg Mahàvagga, Đại phẩm (tạng Luật)
PTS Pali Text Society (Hội Kinh Điển Pàli), Luân Đôn, Anh quốc
Prmj Paramatthajotikà, bản in của PTS.
S Kinh Tương ưng bộ
Sarattha Sàratthappakàsinì, bản in của PTS
Sn Suttanipàta, Tiểu bộ.
Ud Udàna (Colombo, 1929)
Vibh Vibhanga (bản in của PTS)
Vism Thanh tịnh đạo, bản in của PTS


--- o0o ---

ĐỨC PHẬT ^

Đức Phật tên Tất-Đạt-Đa (P. Siddhattha, S. Siddhàrtha), họ Cồ-Đàm (P. Gotama, S. Gautama), sống ở Bắc Ấn vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch. Phụ thân Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddhodana) cai trị vương quốc của bộ tộc Thích-ca (Sàkya; trong xứ Nepal ngày nay). Mẹ ngài là hoàng hậu Ma-gia (Màyà). Theo tục lệ tảo hôn thời ấy, năm 16 tuổi ngài cưới công chúa xinh đẹp đức hạnh tên Da-giu-đà-la (Yasodharà). Vị thái tử trẻ sống trong cung điện đầy xa hoa lộng lẫy. Nhưng khi va chạm với thực tại cuộc sống và khổ đau của loài người, ngài quyết định đi tìm một giải pháp, con đường ra khỏi nỗi khổ bao la này. Năm 29 tuổi sau khi người con duy nhất La-hầu-la (Ràhula) ra đời, Ngài từ bỏ cung điện, trở thành một người khổ hạnh lên đường tìm đạo giải thoát.

Trong 6 năm Ngài lang thang khắp thung lũng sông Hằng (Ganges), gặp những vị thầy danh tiếng, học lý thuyết và thực hành phương pháp của họ, khép mình vào những lối tu khổ hạnh khắt khe. Không thỏa mãn với những lý thuyết và thực hành ấy, Ngài từ bỏ mọi giáo lý và phương pháp truyền thống để đi theo con đường riêng. Cuối cùng, một buổi chiều ngồi dưới một cội cây (từ đấy cây này được gọi là cây Bồ đề có nghĩa là "trí tuệ") bên bờ sông Ni-liên (Neranjarà) ở Buddha-Gaya (Bồ-đề đạo tràng, gần Gaya trong xứ Bihar ngày nay) ngài đã đạt giác ngộ. Từ đấy Ngài được tôn xưng là đức Phật, "Người đã Giác ngộ". Năm ấy Ngài 35 tuổi.

Sau khi chứng đạo, đầu tiên Phật thuyết pháp cho một nhóm 5 nhà khổ hạnh, những người bạn cũ của Ngài, tại vườn Nai (Lộc uyển) ở chư thiên đọa xứ (Isipatana, tức Sarnath ngày nay) gần Ba-la-nại (Benarès). Từ ấy ngài giáo hóa suốt 45 năm cho tất cả mọi tầng lớp nam nữ, vua chúa và thường dân, Bà la môn và cùng đinh, thương gia và hành khất, tu sĩ và bọn cướp - hoàn toàn không phân biệt. Ngài không công nhận những dị biệt về giai cấp hay tập đoàn xã hội, và Đạo ngài mở rộng cho tất cả mọi người nam cũng như nữ, bất cứ ai sẵn sàng hiểu và tin theo.

Năm 80 tuổi, Phật nhập diệt ở Câu-thi-na (Kusinàrà, nay là Uttar Pradesh).

Hiện nay đạo Phật được lan truyền tại Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Lào, Việt Nam, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ, Triều Tiên, Đài Loan và một vài nơi ở Ấn độ, Hồi quốc và Nepal và cả ở Liên Xô. Tín đồ Phật giáotrên thế giới có trên 500 triệu.

--- o0o ---

Ghi chú:^

Bản Việt dịch nầy là bản dịch mới nhất, năm 1998, được Ni sư Trí Hải sửa lại và bổ túc dựa theo bản Pháp ngữ xuất bản năm 1978.

Bản dịch đầu tiên năm 1965 của Ni sư, xuất bản tại Sài Gòn năm 1966, có tựa đề là "Con đường thoát khổ", dựa theo ấn bản năm 1959 của Ngài Hòa thượng Walpola Rahula. Vào năm 1998, chúng tôi có đăng bản điện tử quyển "Con đường thoát khổ", do một nhóm Phật tử tại California, Hoa Kỳ, đánh máy và ấn tống.

(Bình Anson, tháng 10-2002).


--- o0o ---

Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này

--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/10/2011(Xem: 3549)
Quan điểm phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng tạo và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
02/10/2011(Xem: 3558)
Trong thế giới này, trong vũ trụ này hoặc trong muôn ngàn vạn ức thế giới, có một con quỷ - không biết dung mạo của nó ra sao, nó bao nhiêu tuổi, nhưng quyền năng của nó thật ghê gớm. Đó là Con Quỷ Vô Thường
29/09/2011(Xem: 3557)
Chữ “nhẫn” trong chữ Hán được viết như sau: 刃 (nhận) +心 (tâm) = 忍 Chữ 刃 (nhận) nghĩa là sự nguy hiểm, mũi nhọn, chém giết Chữ 心 nghĩa “tim”, chữ tâm được dùng rất phổ biến như tâm cảnh心境, tâm địa心地 nghiên cứu về hiện tượng ý thức gọi là tâm lý học 心理學, Phật học thì thượng gọi vạn pháp duy nhất tâm, gọi tắc duy tâm 唯心
22/09/2011(Xem: 3952)
Chúng sanh tạo tác ác nghiệp, đó là cội gốc chân thật của bệnh khổ. Bởi vì Phật, Bồ Tát, A La Hán không tạo ác nghiệp, cho nên các Ngài không bệnh. Đạo lý chính ngay chỗ này. Nếu Phật Bồ Tát bị bệnh thì đó là thị hiện, đó là hoằng pháp. Ví dụ như bệnh của Ngài Duy Ma Cật là hoằng pháp lợi sanh, không phải Ngài bệnh thật, Ngài không thể bị bệnh, Ngài không có lý do gì để bị bệnh.
15/09/2011(Xem: 3845)
Tự nhận rằng, là người của công việc, hay đi lại đó đây, ngay cả trong mùa an cư, do đó với riêng tôi, việc thực hiện đúng thời khóa công phu theo phương thức truyền thống là điều bất khả! Mặc dù vậy, tự trong sâu thẳm của lòng mình, mong mỏi được đọc tụng toàn bộ kinh tạng trong mùa an cư dường như là một sở nguyện đã manh nha từ lâu...
14/09/2011(Xem: 4270)
Hạnh phúc và khổ đau lưu xuất từ những hành động quá khứ của chúng ta. Để định nghĩa nghiệp (karma) trong vài chữ, người ta có thể nói: hãy làm tốt, tất cả sẽ tốt; nếu làm xấu, tất cả sẽ xấu. Karma - nghiệp - có nghĩa là "hành động". Nó hoạt động theo ba mặt: thân, lời, và ý. Nó sản sinh ra ba loại hậu quả: xấu, không xấu và trung tính, và diễn ra trong hai thời: trước tiên người ta nghĩ đến điều sắp làm, đó là hành động ý định, rồi những động lực tâm thức hiện thực thành một hành vi thân xác hay lời nói, đó là hành động cố ý.
13/09/2011(Xem: 4171)
Đức Phật tại thế, mọi người được sống hạnh phúc bên cạnh bậc đại Đạo sư minh triết tuyệt vời, cho nên không cần đặt ra vấn đề tìm hiểu về Phật. Nhưng khi Phật nhập Niết bàn, mọi người đều có chung suy nghĩ rằng cần góp nhặt lời Phật dạy để truyền cho nhau tu hành. Trong lần kiết tập đầu tiên, dĩ nhiên không thể trùng tuyên đầy đủ lời Phật dạy, cũng như không được mọi người tán thành hoàn toàn. Thật vậy, những chứng nhân quan trọng đã từng trực tiếp nghe Phật thuyết pháp như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên đã nhập Niết bàn. Ngoài ra, lịch sử cũng ghi rõ đại đệ tử thuyết pháp bậc nhất Phú Lâu Na và 500 Tỳ kheo không đồng ý với những gì được kiết tập. Họ đã đến hang động khác để trùng tuyên lại.
02/09/2011(Xem: 5983)
Khoa học là sự hiểu biết về thế giới hiệntượng bên ngoài và các ứng dụng của sự hiểu biết ấy. Đấy là cách định nghĩa củakhoa học ngày nay. Thế nhưng cũng có một lãnh vực hiểu biết khác, thiết lập trênnguyên tắc tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu khác, đặc biệt liên hệ đên cáchiện tượng bên trong (tức nội tâm), và được ứng dụng vàocác hiện tượng như tri thức hay tâm thức chẳng hạn... Để có thể ý thức được sự kiện tất cả các hiện tượng ảo giác đều không khác nhau trên phương diện tánh không, thì nhất thiết phải tập trung sự suy tư thẳng vào tánh không.
30/08/2011(Xem: 5009)
Đạo Phật nguyên thủy là Đạo Phật được dạy bởi Đức Phật Gautama và giáo pháp của ngài hiện vẫn còn được lưu giữ lại trong tam tạng kinh điển hệ Pali (Nikaya). Dù rằng trong thực tế đa số người tìm đến Đạo Phật chỉ như một nhu cầu tín ngưỡng, vẫn có một số ít cá thể thực sự tìm đến với Đạo Phật với lòng khao khát giải thoát. Trong trường hợp này, người tìm đến Đạo Phật với lòng khao khát giải thoát rất cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa Đạo Phật “nguyên thủy” và các Đạo Phật không phải là “nguyên thủy”, giữa Chánh pháp và Phi pháp.
25/08/2011(Xem: 6778)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự Thật – Tương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567