Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài Thứ 1 Bài Thứ Nhứt: Chương Văn Thù

27/04/201313:17(Xem: 15417)
Bài Thứ 1 Bài Thứ Nhứt: Chương Văn Thù

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

B.- Phần Chánh-tôn

I.- CHƯƠNG VĂN-THÙ

1. Ngài Văn Thù hỏi Phật

Khi ấy Ngài Văn-thù Sư Lợi Bồ-tát ở trong đại-chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay đảnh-lễ và quỳ thẳng bạch rằng:"

Bạch đức Đại-bi Thế-Tôn, xin Ngài vì thính-chúng trong pháp-hội hiện-tại nầy và các chúng-sanh cầu Đại-thừa đời sau, từ bi chỉ dạy:

1.Nói lại nhơn-địa tu-hành thanh-tịnh của Như-Lai;

2.Các vị Bồ-tát đối với Đại-thừa, đã phát tâm thanh-tịnh (Bồ-đề) rồi, làm sao xa lìa được các bịnh (trừ-vọng); khiến cho các chúng-sanh khỏi đọa vào đường tà (tà-kiến).

Ngài Văn-thù Bồ-tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính lạy rồi trở lui, cùng với đại chúng ngồi yên-lặng, để chờ nghe lời Phật chỉ giáo.

LƯỢC GIẢI

Đại-ý đoạn nầy là Ngài Văn-Thù hỏi Phật hai điều:

1.Phật đã tu-hành như thế nào mà được thành Phật?

2.Các vị Bồ-tát, khi đã phát-tâm Bồ-đề rồi, làm sao cho các vọng đừng sanh?

Câu hỏi thứ nhất giống như câu hỏi trong kinh Lăng-Nghiêm, Ngài A-Nan hỏi Phật: “...Xin Phật chỉ dạy cho con phương-pháp nào mà tất cả các đức Phật tu-hành đều được thành đạo chứng quả...”.

Câu hỏi thứ hai, giống như câu hỏi trong kinh Kim-Cang, Ngài Tu-Bồ-Đề hỏi Phật: “... Làm sao an-trụ Chơn-tâm và làm sao hàng-phục được Vọng-tâm...” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng-phục kỳ tâm).

2. Phật khen Ngài Văn Thù

Khi ấy đức Thế-Tôn kêu Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát mà dạy rằng:

- Nầy Thiện-nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ-tát hiện-tại và tất cả chúng-sanh đời sau cầu pháp Đại-thừa mà thưa hỏi:

1.Nhơn-địa tu-hành của Như-Lai;

2.Khi đã phát-tâm thanh-tịnh rồi, làm sao xa-lìa các bịnh, để khỏi đọa vào tà-kiến. Vậy ông hãy chăm-chú nghe, tôi sẽ vì các ông chỉ giáo.

Khi đó Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát và đại-chúng đều hoan-hỷ, vừa kính-cẩn và vừa chăm-chú chờ nghe lời Phật dạy bảo.

LƯỢC GIẢI

Phật trước khen-ngợi, rồi sau dặn-dò phải chăm-chú nghe, là vì “Viên-giác” là cảnh-giới thanh-tịnh, phải định-tâm chú-thần mà nghe, không thể dùng tâm sanh-diệt, ý-nghĩ xằng-xiêng mà nghe hiểu được

3. Phật trả lời cho Ngài Văn Thù

- Này thiện-nam, Như-Lai có pháp “Đại Đà-la-ni” (1) tên là “Viên-Giác”. Từ tánh “Viên-Giác” nầy mà sanh ra tất cả các pháp thanh-tịnh: Chơn-như, Bồ-đề (Trí-giác) Niết-bàn (viên-tịch) và Ba-la-mật (Đáo-Bỉ-Ngạn), nay ta sẽ dạy trao cho các ông.

Nầy Văn-Thù, nhơn-địa tu-hành của các đức Phật, đều y “Viên-Giác” nầy mà vĩnh-viễn đoạn trừ vô-minh, được sánh-suốt thanh-tịnh viên-mãn, nên mới được thành Phật.- Vậy “Vô-minh” là gì?

LƯỢC GIẢI

Ngài Văn-Thù hỏi nguyên-nhơn tu-hành của các đức Phật thế nào?- Đến đây Phật mới trả lời: Tất cả chư Phật đều y “Viên-Giác” để chiếu phá vô-minh và được thành Phật. Nào là: Chơn-như, Bồ-đề, Niết-bàn và Bát-nhã Ba-la-mật-đa v.v... cũng đều từ “Viên-Giác” nầy mà lưu xuất.

Vậy muốn ngộ được “Viên-giác’ trước phải hiểu rõ. Vô-Minh và diệt trừ vô-minh là điều cần nhứt.

4. Phật chỉ “Vô minh”

- Nầy Thiện-nam, tất cả chúng-sanh từ hồi nào đến giờ, bị nhiều món điên-đảo làm mê-mờ tánh “viên-Giác”, như người lạc đường, lầm lộn bốn phương. Điên-đảo vọng-hiện ra thân và tâm, rồi lầm nhận thân tứ-đại giả hợp nầy làm thân mình, chấp cái vọng-niệm sanh diệt duyên theo bóng-dáng của sáu trần cho là thật tâm mình. Như người nhặm con mắt, thấy trong hư-không có các hoa đốm, hoặc mặt trăng thứ hai. Thật ra trong hư-không chẳng có hoa đốm hay mặt trăng thứ hai, nhưng vì người nhặm con mắt vọng-chấp. Bởi vọng-chấp, nên chẳng những không biết được hư-không, mà lại thêm mê-lầm: Chấp thật có hoa đốm sanh. Vì mê-lầm mà có sanh-tử luân-hồi, nên gọi là “Vô-minh”.

LƯỢC GIẢI

Đoạn nầy Phật chỉ rõ cái “Vô-minh”. Vô-minh là những cái vọng-tưởng điên-đảo che mờ tánh “Viên-Giác” (bản tâm thanh-tịnh).

Bởi Vô-minh vọng hiện ra có thân có cảnh rồi chúng-sanh trở lại chấp thật-ngã thật-pháp, tạo ra vô-số nghiệp, mê-mờ chồng-chập, che đậy tánh Viên-Giác! Vì thế mà nhiều kiếp sanh-tử luân-hồi, trầm-luân trong biển khổ.

Cũng như người bị buồn ngủ (dụ cho Vô-minh) nổi lên, làm cho mê-mờ tánh tỉnh-táo (dụ cho Viên-Giác); nhơn đó hiện ra cảnh chiêm-bao đủ cả người và vật (hiện thế-giới và chúng-sanh), rồi cũng khóc cũng cười, cũng mừng cũng giận, mỗi mỗi đều cho là thiệt cả, nên luyến-ái triền miên, từ giấc chiêm-bao nầy tiếp-tục qua giấc chiêm-bao khác, không biết chừng nào thức-tỉnh.

Đây là dụ cho Vô-minh chồng-chập che mờ tánh “Viên-Giác” (Chơn-tâm).

5. Phật dạy “Vô minh” không có thật thể

- Nầy thiện-nam! Cái “Vô-minh” này không có thật thể (thật vật). Như người ngủ chiêm-bao, thấy các cảnh vật, đến khi thức rồi, thì cảnh vật kia không còn; và như người hết nhặm, thì các hoa đốm trong hư-không tự tiêu-diệt. Lúc bấy giờ không thể nói “thật có chỗ hoa diệt”, vì không thật có chỗ hoa sanh vậy.

Tất cả chúng-sanh ở trong cái “không sanh diệt” (tánh Viên-Giác) mà vọng thấy có sanh-diệt, cho nên mới bị trầm luân trong biển sanh-tử luân-hồi.

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dạy: Tất cả chúng-sanh vẫn ở trong bản tánh Viên-Giác thanh-tịnh không sanh không diệt, mà tự mình mê-mờ (Vô-minh) vọng thấy có sanh-diệt, nên vĩnh kiếp triền-miên, luống chịu trôi lăn trong biển sanh-tử luân-hồi, thật đáng thương!

Nhưng “Vô-minh” là hư-vọng, không có thật-thể, cho nên khi giác-ngộ rồi, thì nó t�� hết. Cũng như các “Tối”, vì nó không có thật-thể, nên khi “ Sáng” đến, thì “Tối” tự mất. Nếu Vô-minh là vật có thật, như núi, như sông v.v... thì không dễ gì làm tiêu nó được.

Phật lại tỷ-dụ: Vô-minh như chiêm-bao, không phải thật vật, nên khi thức rồi thì cảnh chiêm-bao tự mất. – Vô-minh như mắt người bị nhặm, thấy hoa-đốm lăng-xăng giữa hư-không khi hết nhặm rồi thì hoa đốm liền tiêu.

6. Phật dạy tu theo “Viên giác”

- Nầy Thiện-nam, nhơn-địa tu-hành của Như-Lai là tu theo Viên-Giác. Nghĩa là: biết các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không có người chịu sanh-tử luân hồi.

Không phải phá hoại, làm cho các pháp mất đi mà kêu là không, chính bản-tính của các pháp nó tự không. Cái “biết (năng biết) các pháp không” đó, cũng như hư-không. “Cái biết như hư-không”, cũng không luôn. Nhưng không thể nói: “không có cái biết”. Phải dứt trừ hết cả “có” và “không”, như thế mới gọi là “tùy thuận tánh Viên-giác” (tu Viên-Giác).

LƯỢC GIẢI

Đoạn nầy Phật dạy tu theo “Viên-Giác”, có 5 từng bực:

1.Từng bực thứ nhất, là quán các pháp đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không, nên không sanh tâm tham, sân, si. Ba độc không sanh, thì ba nghiệp thân, khẩu, ý chẳng tạo nhiệp. Vì không tạo nhiệp, nên không có cảnh luân-hồi và người bị luân-hồi.

2.Trên nói “cảnh bị biết” không, nói đến từng thứ hai là “cái tâm hay biết” cũng như hư-không.

3.Đến từng thứ ba, là cái biết “cái tâm hay biết cũng như hư-không” cũng không luôn.

4.Sợ người lầm chấp cảnh-giới nầy không có cái biết, nên đến từng thứ tư, Phật dạy tiếp: “không phải là không có cái biết”.

5.Đến từng thứ năm, Phật dạy phải rời các vọng-chấp “có” và “không”, mới nhập được tánh viên-giác.

7. Phật và Bồ Tát đều tu theo “Viên Giác”

Tại sao thế? Vì trong Như-Lai-Tạng (Viên-Giác) không có sanh diệt, không có thấy biết, như hư-không thường còn, chẳng lay động, như tánh của pháp-giới viên-mãn khắp giáp cả mười phương.

Đây gọi là chỗ nhơn-địa tu-hành của Như-Lai, các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây mà phát tâm thanh-tịnh tu theo Đại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y theo đâu tu-hành, mới khỏi đọa vào tà-kiến.

LƯỢC GIẢI

Như-Lai-Tạng là tánh Như-Lai hàm chứa tất cả các pháp; cũng gọi là “Viên-Giác”, cũng kêu là “Pháp-giới-tánh” (bản tánh của các pháp). Nó viên-mãn khắp-giáp cả mười phương, không có sanh-diệt và cũng không tri-kiến, như hư-không thường còn chẳng lay động.

Phật dạy: Đây là chỗ tu-hành của Như-Lai. Các vị Bồ-tát cũng nhơn nơi đây phát tâm thanh-tịnh tu Đại-thừa. Chúng-sanh đời sau cũng phải y nơi đây tu-hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.

Ngài Văn-Thù hỏi 2 câu:

1.Nhơn-địa tu-hành của Như-Lai.

2.Các vị Bồ-tát phát tâm Bồ-đề tu theo Đại-thừa, làm sao phá trừ được các vọng? Đến đây Phật đã dạy xong.

8. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

Khi đó Đức Thế-Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:

Văn-Thù! Ông phải biết:

Chỗ chơn-địa tu-hành

Của các đức Như-Lai

Là dùng trí Viên-giác

Phá trừ hết Vô-minh:

Biết các pháp hư-huyễn

Thì khỏi bị luân-hồi.

Cũng như người chiêm-bao,

Thức rồi cảnh mộng hết.

Cái biết cũng không còn

Sáng-suốt khắp mười phương (Viên-giác),

Bình-đẳng không chuyển-động,

Tức thì thành Phật-đạo.

Các huyễn diệt hết rồi,

Thành đạo cũng không thành:

Xưa nay tánh viện-mãn.

Bồ-tát y nơi đây,

Phát tâm đại Bồ-đề,

Các chúng-sanh đời sau,

Tu đây mới khỏi đọa.

LƯỢC GIẢI

Đại ý bài kệ nầy: Các Đức Phật dùng trí Viên-Giác phá trừ Vô-minh. Nghĩa là: biết muôn vật đều hư-huyễn, như hoa đốm giữa hư-không, không sanh tâm nhiễm-trước, nên khỏi bị luân-hồi.

Người được giác-ngộ rồi cũng như người thức giấc chiêm-bao: các cảnh vật đều không còn - Cảnh “bị biết” đã không, nên “cái biết” (năng biết) cũng không. Vì năng và sở đều không nên tánh Viên-giác mới hiện ra sáng-suốt chiếu khắp cả mười phương, bình-đẳng không chuyển-động, như thể là “thành Phật”.

Nói “thành Phật” là tạm nói mà thôi, thật ra cũng không “thành”. Vì tánh “Viên-Giác” của mỗi người đều sẵn có, chỉ trừ hết “Vô-minh” rồi thì “Viên-Giác” tự hiện ra, chớ có gì đâu mà gọi là “thành”.

Cũng như người có sẵn hòn ngọc trong túi, chẳng qua vì quên, nên in như mất. Đếu khi nhớ lại thì ngọc vẫn ở sẵn trong túi áo, chớ đâu phải mới “đặng”. Bởi thế nên nói “thành đạo cũng không thành”.

Phật y theo Viên-Giác nầy mà tu, Bồ-tát cũng y theo Viên-Giác nầy mà phát tâm Bồ-đề, cho đến chúng sanh đời sau cũng phải y theo Viên-Giác nầy tu-hành mới khỏi lạc vào tà-đạo.


--- o0o ---

Cập nhật: 07/2003

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 38923)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.
08/04/2013(Xem: 6543)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 8236)
Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài.
08/04/2013(Xem: 6040)
Dòng tâm thức luôn lăn trôi từng sát na sanh diệt, do đó chúng ta sống trong thế giới hiện tượng này làm sao tránh khỏi tâm viên ý mã, mà nguyên nhân là lý sanh diệt luôn biến dị chi phối , làm cho chúng ta tưởng chừng như có nhiều tâm trong con người. Thật vậy tâm luôn thay đổi qua nhiều tình huống, thăng trầm của tư duy qua sự phát triển của khối óc và căn cơ trình độ.
08/04/2013(Xem: 14583)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 15258)
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
08/04/2013(Xem: 10577)
Hai chữ Kim Cang, nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri kiến theo thói xưa tầm thường.
08/04/2013(Xem: 7203)
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.
08/04/2013(Xem: 17985)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
08/04/2013(Xem: 9175)
Mùa hè năm 1996, tôi có dịp sang Canada thuyết giảng và hướng dẫn vài khóa tu học. Một số Phật tử đã thâu băng những buổi giảng và chép ra để làm tài liệu tu tập...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]