Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật.

22/04/201311:57(Xem: 6403)
Niệm Phật.

 

NIỆM PHẬT
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu, là một biện chứng giải thoát, một con đường giải thoát. Giải thoát hết phiền não, hết bát khổ, ra ngoài tam giới tức là cõi dục, cõi sắc và vô sắc. Chân lý mà Đức Phật diễn giải rất là hiển nhiên dễ dàng, nhưng cũng rất là huyền nhiệm mênh mang. Chân lý ấy có thể thu gọn trong một chữ Tâm hay chữ Như cũng được, nhưng nếu giải ra nói suốt một kiếp cũng chưa hết.

Pháp môn của đạo Phật cũng vô lượng, và đạt đến những tam muội giải thoát cũng vô lượng. Một vị hành giả có thể ngồi trong buồng, nơi rừng vắng hoặc bãi tha ma, quán lẽ Thập Nhị Nhân Duyên, quán Ngũ Uẩn, quán Sương Khô, quán Âm Thanh, quán mùi hương, như lối chín năm quay mặt vào vách của Đức Đạt ma, hoặc có thể niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật hay chỉ một chữ Phật cũng được.

Pháp môn tuy rất nhiều, nhưng tựu trung chỉ có hai đường: một là tu Quán dùng Thiền Định và Trí huệ Bát Nhã để soi suốt lẽ vô thường của muôn vật; hai là tu Tịnh Độ, níu lấy câu niệm Phật và dùng lòng sùng kính tôn thờ d8ể đạt tới bờ giải thoát. Lối thứ nhất là dùng Tự -Lực; lối thứ hai là nhờ Tha lực, tức là thần lực của chư Phật và Bồ Tát. Lối thứ nhất cũng gọi là "nan hành đạo", còn lối thứ hai là "dị hành đạo" tức là con đường dễ đi.

Thực ra thì Thiền Tông hay Tịnh Độ cũng đều độc đáo, và sự khó hay dễ chỉ là do căn duyên của từng hành giả và vạn kiếp của đạo. Thời này, theo Kinh Phật, là thời mạt kiếp, căn cơ thường thấp kém, nên tu tự lực khó và tu theo lối niệm Phật thì dễ hơn.

Lối tu Tịnh Độ là phát xuất từ Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Điểm đặc biệt của Kinh A Di Đà là trong kinh này, tuyệt nhiên không có một vị nào cầu Pháp cả, mà tự nhiên Đức Phật nói ra kinh này. Tại sao vậy? Chỉ là vì trong khi vào tam muội, Đức Phật nhìn thấy rõ ràng đến thời mạt kiếp, căn cơ chúng sinh thấp kém, lòng tin băng hoại, kinh sách mất dần, nên Ngài động lòng từ bi, tự ý nói ra một pháp môn dễ nhớ và dễ tu, vì chỉ cần nhờ một câu: A Di Đà Phật. Điểm cảm động nhất trong kinh là đức Phật đã phải thè lưỡi ra thề thốt về sự hiệu lực của pháp môn này. Không những riêng Đức Thích Ca thề mà cả chư Phật mười phương cũng thề. Tại sao vậy? Vì Đức Phật e ngại rằng chúng sinh thấy pháp môn này giản dị quá mà hoài nghi, nên chư Phật đã thề.

Vả lại tu thiền định theo lối tự lực không, mà không kèm theo câu niệm Phật thì dễ bị ngã vì ma chướng. Xem như Kinh Lăng Nghiêm, ông A Nan đã gần tới bậc A La Hán và đa văn hạng nhất , cũng còn bị ma chướng là người kỳ nữ Ma Đăng Gìa cám dỗ. Khiến Đức Phật phải sai chính Đức Văn Thù mang chú Lăng Nghiêm đến giải cứu. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cũng kể rõ năm mươi món ma chướng mà người hành giả tu quán "Ngũ Uẩn Giai Không" dễ mắc phải... Cũng vì thế mà ở Trung Hoa hay Việt Nam, một thiền viện thường có "Niệm Phật Đường", và rất nhiều vị Thiền Sư bản lãnh cao với vẫn phải tu thêm câu niệm Phật. Vì có câu niệm Phật, mới tránh khỏi ma chướng, gột được lòng kiêu mạn và mới có thể vãng sanh sang một cõi đất lành.

Nhờ thần lực của Đức Di Đà, Đức Thích Ca và Chư Phật mới được vãng sanh và đỡi bị đoạ. Người tu thiền tự lực, càng cao bao nhiêu càng dễ bị đoạ bấy nhiêu. Chỉ động một niệm tà như tự kiêu, hoặc thèm ăn, hoặc động một niệm dâm dục là có thể bị đọa. May thì trở lại làm người, không may sẽ đọa hơn nữa. Sử chép rất nhiều chuyện như vậy. Như ông Tô Đông Pha kiếp trước là một thiền sư khá lỗi lạc, nhưng một lúc ngồi thiền chợt động niệm thanh sắc, nhớ tiếng hát của kỳ nữ, nên kiếp sau chỉ làm một thi sĩ không còn nhớ đến những chủng tử thiền của kiếp trước nữa. Ấy là đọa nhẹ.

Có một vị tiên tu thiền, trước kia trong lúc ngồi thiền, chợt nhớ đến mái tóc một vị hoàng hậu rồi lại đâm cáu giận với một con qụa kêu làm rối loạn sự thiền định của mình, mà đến kiếp sau bị đọa làm thân con phi-ly tức là con chồn, mặc dầu ông ta nhiều bản lãnh... Sở dĩ bị đọa là vì một khi vào bào thai, đến bậc La Hán hoặc sơ Bồ tát cũng vẫn bị mê muội và quên mất bản lãnh của mình. Chỉ có những bậc Bồ Tát cao và chư Phật lúc vào bào thai mới không bị mê muội mà thôi.

Thần lực của câu niệm Phật và của chư Phật có thể ví như một chiếc thuyền lớn, chở hộ cho hành giả những nghiệp sâu dày, hoặc làm tiêu tan dần nghiệp đó. Nên có thể "đới nghiệp vãng sanh". Người tu niệm Phật cũng thường được chuyển nghiệp, chuyển nghiệp nặng ra nghiệp nhẹ. Có một vị cư sĩ suốt đời tu niệm Phật, đến lúc già bị bọn cướp vào đâm cho ông sáu lát dao. Ông nằm hấp hối. Người anh hỏi: "Sao chú niệm Phật mà lại bị nạn này?" Cư sĩ mở mắt ra nói: "Em được chuyển nghiệp. Theo nghiệp cũ, đáng lẽ em phải đọa làm sáu kiếp súc sinh. Nay sáu lát dao này thay cho sáu kiếp lúc sanh. Bây giờ, em sạch nghiệp rồi và em vãng sanh đây." Nói xong thì chết.

Niệm Phật là luôn luôn xưng danh hiệu Đức A Di Đà và giữ trong tâm một hình bóng của Phật. Đó cũng là một lối thiền, nhưng là thiền về hình bóng của Phật và niú lấy danh hiệu Phật làm một bóng cả để nương nhờ.... Trên thực tế, người hành giả nên tu vừa thiền vừa tịnh. Một phần thiền, và phần chính yếu là tịnh. Thiền có điểm lợi là mình dễ tế nhận được "cái thấy" của tâm thức, "cái thấy" này được kinh Lăng Nghiêm giảng rất rõ. Còn phần tu tịnh thì nhờ được thần lực của chư Phật và Bồ tát...

Kẻ viết giòng này, trước kia ham đọc thiền, và ngu muội coi nhẹ câu niệm Phật, cho đó là lối tu của mấy bà già nhà quê. Nhưng rồi ngồi thiền thấy như leo vách đá, không biết niú vào đâu. Sau hiểu ra nhờ đọc cuốn Lá Thơ Tịnh Độ của Ngài Ấn Quang và nhung sach cua Thuong Tọa Trí Tịnh và Thiền Tâm (đều ở lại Việt Nam, một vị ở Thủ Đức, một vị ở Blao). Viết những giòng này để tưởng nhớ hai vị Thượng Tọa.



---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/11/2010(Xem: 5800)
THIỀN ĐỊNH: HÃY NGẮM NHÌN MỌI SỰ– bản ngã, hành động, đối tượng; bằng hữu, kẻ thù, người không quen biết, những người là đối tượng của sự tham luyến của bạn, sự sân hận, và sự vô minh; mọi hiện tượng mang lại kết quả – với sự tỉnh giác về thực tại: tất cả những điều này đều phù du, và có thể ngừng dứt bất kỳ lúc nào. Tất cả những hiện tượng này không chỉ biến đổi trong từng giây phút do bởi những nguyên nhân và điều kiện (duyên), nhưng chúng có thể kết thúc bất cứ lúc nào.
18/11/2010(Xem: 9480)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
12/11/2010(Xem: 18636)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
10/11/2010(Xem: 7001)
Đức phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ. Trong Kinh Bi Hoa nói rằng: "Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện trì".Khi ấy tại cõi Tản đề lam thế giới có vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ: một là Đông thắng thần châu, hai là Nam thiệm bộ châu, ba là Tây ngưu hóa châu, và bốn là Bắc cu lô châu, tiếng nhơn hiền đồn dậy bốn phương, đức từ thiện đượm nhuần khắp xứ, nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẳn lòng ái kính.
07/11/2010(Xem: 10378)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
07/11/2010(Xem: 7551)
Tối nay, tôi muốn nói về sự thực tập Phật Pháp trong đời sống hằng này. Từ ngữ Phật Pháp - Giáo Pháp – Dharma có nghĩa là phương sách ngăn ngừa. Nó là điều gì đấy mà chúng ta thực hiện nhằm để tránh những rắc rối. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm để liên hệ chính chúng ta với sự thực hành Phật Pháp là để nhận ra rằng thực hành Phật Pháp là để hướng tới việc giúp chúng ta tránh khỏi những rắc rối này.
06/11/2010(Xem: 21473)
Ẩn tu nào phải cố xa đời! Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi! Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng Bốn ân còn nặng nghĩa đền bồi.
04/11/2010(Xem: 4420)
Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo gia hộ cho thần thức người đã mất được nhẹ nhàng, siêu thoát về các cõi lành. Trong kinh Địa Tạng có nói rõ tác dụng của sự cầu nguyện cho người chết rằng: Trong 7 phần công đức, người cầu siêu được hưởng sáu phần, người chết chỉ hưởng được một phần mà thôi.
02/11/2010(Xem: 4612)
Điều cực kỳ quan trọng là phải biết đâu là cách thức tốt nhất để dẫn dắt đời sống hàng ngày của ta. Điều này tuỳ thuộc vào việc ta thấu hiểu những gì là hành động tâm linh và những gì không phải, sự khác biệt giữa Pháp và những gì không phải là Pháp. Những lợi lạc của sự thấu hiểu này thì thật vô biên, không thể tin nổi.
02/11/2010(Xem: 4661)
Trong khóa nhập thất Hayagriva Tối Mật tại Viện Vajrapani, Tháng Chín, Tháng Mười năm 1997, Lama Zopa Rinpoche đã ban cho các đệ tử lời khuyên dạy sau đây. Việc này xảy ra khi Rinpoche giải thích một luận văn dài cho sadhana (1) Hayagriva Tối Mật, khi giảng thêm về tiết đoạn quy y:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567