Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật ở trong tâm hay ngoài tâm.

22/04/201311:55(Xem: 4805)
Phật ở trong tâm hay ngoài tâm.

 

PHẬT Ở TRONG TÂM
HAY PHẬT Ở NGOÀI TÂM


Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng


---o0o---


Phật! Phật! Phật! Tâm! Tâm! Tâm
Thức! Thức! Thức! Tỉnh! Tỉnh! Tỉnh

Đó là hai câu thơ của ngài Thượng Sỹ Tuệ Trung, một vị công hầu đời Trần, đã từng cầm quân chống giặc Nguyên, sau bỏ đi tu Phật để suy ngẫm về cái hiện tượng của Tâm và cái lẽ của Thiền.

Hai câu thơ đó có ý nói rằng nền giáo lý của Phật, tuy mênh mang như biển cả, xong có thể thu gọn trong hai chữ Tâm và Phật, hoặc Mê và Ngộ.

Hãy nói về cái Tâm.

Một lần, trên núi Linh Sơn, Đức Thích Ca ngự trên tòa sen, sắp thuyết pháp. Nhưng Ngài không nói gì cả, chỉ khoan thai đưa một cành hoa, rồi lặng lẽ mỉm cười. Đó là tịch niện hoa vi tiếu, độc đáo lối thuyết pháp Phật giáo. Ý Ngài muốn nói như thế này: "Ta có một chân lý tối thượng, đó là chân lý của cái Tâm, nhưng cái Tâm này nó lặng lẽ lắm, nó nhỏ nhiệm, tịch mịch, vi diệu lắm. Ta không thể dùng lời lẽ thế gian mà diễn tả nó được. Vì nếu ta chỉ động một niệm, chỉ nói một chữ, là Tâm đó đã biến thế rồi. Vậy các người phải lặng lẽ, nhỏ nhiệm, tịch mịch, vi diệu mà lãnh hội nó. Nhớ đấy! Nhớ đấy! ..." Nhưng các đệ tử đều ngơ ngác không hiểu, riêng có ngài Ca Diếp là mỉm cười đáp lại mà thôi. Do đó, Ngài đã truyền tâm ấn cho Ca Diếp, cùng y bát để làm đệ nhị tổ của Thiền Tông. Trong giòng này, Đức Đạt ma là tổ thứ 28.

Một lần khác, Đức Thích Ca xuất định, giảng về kinh Lăng Nghiêm. Cũng là giảng về Tâm. Nhưng lần này, Ngài bảo ông A Nan đại khái như sau: "Người nên thận trọng, chớ có vọng tưởng. Cái Tâm ấy nó lạ và huyền nhiệm lắm vì nó là nguồn gốc của tất cả phép lạ đã tạo nên vũ trụ này. Nó như cái gương trong đó, vũ trụ này hiện lên như một cảnh huyễn, như một giấc chiêm bao, như tiếng vang, như mặt trăng dưới đáy nước, như bóng chiếc nhạn in dưới hồ thu, như ảo ảnh nước mà kẻ lữ hành nhìn thâý trên sa mạc, như những đóm đỏ vàng mà kẻ dặm mắt nhìn thấy ở hư không. Hãy thức tỉnh! thức tỉnh! Cái tâm ấy hiển hiện dễ dàng lắm, nhưng nó khó nắm, khó bắt lắm! Nó không ở trong thân người, nó không ở ngoài thân người, nó cũng không ở khoảng giữa. Nó không ở chỗ nào hết, nhưng nó ở tất cả. Nó trụ vào cái gì, thì cái đó trở nên có, nó buông cái đó ra thì nó trở nên không. Nó là anh thợ vẽ, và chính nó vẽ vời nên cảnh thế gian này cùng tâm giới. Nó động một niệm là nó nguệch một nét, nét đó biến thành thức, thức đó động lại trên giòng tâm tư của chúng sinh để trở nên cảnh giới của vũ trụ thế gian.... Nhưng nếu người tỉnh cơn mê, dẹp bỏ lục tặc là lục căn, thì cái thức đó sẽ hồi đầu, rút khỏi các căn và trở về và ngươi sẽ nắm được cái Tâm."

Sau này, Đức Huệ Năng gọi Tâm đó là bản lai diện mục.

Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật còn dạy: Cái Tâm ấy, bổn tính nó vốn trong sáng. Vì thế, các ngươi mới có "cái thấy". Cái thấy này là nồng cốt của lục căn, nhưng nó không phải là lục căn. Lục căn có thể bị tiêu hoại, nhưng nó không tiêu hoại. Nó không gián đoạn, nó bất diệt, và chính nó đã triển chuyển theo lẽ nhân quả, trong cái vòng luân hồi qua các kiếp.

Đọc Tây Du Ký, thì ta thấy Tề Thiên Đại Thánh là cái Tâm. Nó ngang ngược, thay đổi không ngừng, nhưng quyền năng của nó cũng vô cùng. Nó có thể phá cửa nhà trời, cũng như có thể hồi đầu khi bị giam bởi thần lực của câu chú: Ôm Ma Ni Pát Mê Hồng. Nó muốn lớn là được lớn, muốn nhanh được nhanh, muốn chậm có chậm. Có thể biến hoá cây thiết bổng, có thể bước một bước càn đẩu vân vượt qua 84 ngàn dặm, hoặc muốn bay như con ruồi cũng được. Muốn có một thân cũng được, hoặc phân thân làm trăm ngàn cũng có... Và Ngài Huyền Trang đã phải nương vào cái tâm đó, mới đi tới Tây Trúc cầu một cuốn kinh vô tự.

Bây giờ nói đến Phật

Đức Bồ Đề Đạt Ma, chống cây gậy trúc sang Trung Hoa ngồi quay mặt 9 năm vào vách đá, nhắm đôi mắt biếc lại. Vua Lương Võ Đế hỏi: Trẫm xây hàng trăm ngôi chùa, nuôi hàng vạn chư Tăng, có công đức gì không? Đức Đạt ma bảo, có chút ít, nhưng không ăn thua gì... Sở dĩ Ngài nói thế vì muốn bảo vua rằng cần nhất là phải soi vào Tâm, để trở thành Phật.... Trong một buổi thuyết pháp, Ngài lại bảo: Phật và Bồ Tát cũng đều là huyễn cả, còn là mê. Hỡi ôi, tất cả đều là mê cả!!!

Trong Bổn Kinh A Di Đà, thì Đức Thích Ca lại căn dặn: "Về phía Tây, có lạc quốc của Đức A Di Đà, bên cạnh có Đức Quán Âm và Đại Thế Chí. Đức Phật ấy có thực đấy và nguyện lực của Ngài lớn lắm. Các người nên cầu nguyện mà sang đó."

Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy, một đằng bảo Phật là rất có thực, một đằng nói là huyễn?

Thực ra không có gì mâu thuẫn. Chỉ là do mê và ngộ mà thôi.

Chư Phật vừa là huyễn vừa là thực. Khi tâm chúng ta còn mê mờ, chúng sinh coi thân và tâm là thực, thì chư Phật đối với chúng sinh vẫn là thực và có thể dùng tha lực cứu độ. Nhưng khi tâm chúng sinh đã ngộ rồi, thì chúng sinh cũng trở thành huyễn, và chư Phật, vốn là những hình bóng, cũng trở thành huyễn. Vì cái Tâm ngộ đã vượt qua được lãnh vực đối đãi (dualistic) và đạt tới trực quan bất nhị. (phi hữu phi không)

Bởi thế, khi một người niệm Phật, và nuôi một ông Phật trong tâm, thì lúc đầu chỉ có một ông Phật trong tâm thôi. Niệm lâu sẽ gây một luồng cảm ứng làm động tâm Đức Phật ở bên ngoài, tức Đức A Di Đà ở Tây Phương. Đức A Di Đà liền làm mọc sẵn một chiếc hoa sen nơi lạc quốc để chờ người niệm Phật. Niệm lâu hơn nữa, thì Đức A Di Đà sẽ đến trước mặt người đó. Như thế, là có hai vị Phật, một ở ngoài và một ở trong tâm. Niệm đến chỗ rốt ráo và tâm bất loạn, thì Đức A Di Đà sẽ lọt vào tâm người đó, và trở thành một, và Phật thực cũng trở nên huyễn.

Cho nên, không thể nói Phật ở ngoài tâm hay trong tâm được. Nói ở ngoài là nói thấp, nói ở trong là cao hơn một chút. Đến chỗ rốt ráo, thì Phật là tâm và tâm là Phật. Cả hai vừa là thực vừa là huyễn. Vả lại, Tâm ở tất cả mọi chỗ, nên không có trong hay ngoài.

Có mấy chú học sinh Thiền học ngồi cãi nhau, chỉ một tảng đá trước mặt, và tranh luận hăng hái. Kẻ thì bảio tảng đá ở ngoài tâm, một anh khác hùng biện hơn nói là ở trong tâm, và có vẻ thắng lý. Chợt ông thầy đi qua, cười bảo anh này: Đá ở trong tâm mày, chắc đầu mày phải nặng, và nhức đầu lắm!....



---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/11/2010(Xem: 9426)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
12/11/2010(Xem: 18559)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
10/11/2010(Xem: 6966)
Đức phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ. Trong Kinh Bi Hoa nói rằng: "Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện trì".Khi ấy tại cõi Tản đề lam thế giới có vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ: một là Đông thắng thần châu, hai là Nam thiệm bộ châu, ba là Tây ngưu hóa châu, và bốn là Bắc cu lô châu, tiếng nhơn hiền đồn dậy bốn phương, đức từ thiện đượm nhuần khắp xứ, nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẳn lòng ái kính.
07/11/2010(Xem: 10348)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
07/11/2010(Xem: 7510)
Tối nay, tôi muốn nói về sự thực tập Phật Pháp trong đời sống hằng này. Từ ngữ Phật Pháp - Giáo Pháp – Dharma có nghĩa là phương sách ngăn ngừa. Nó là điều gì đấy mà chúng ta thực hiện nhằm để tránh những rắc rối. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm để liên hệ chính chúng ta với sự thực hành Phật Pháp là để nhận ra rằng thực hành Phật Pháp là để hướng tới việc giúp chúng ta tránh khỏi những rắc rối này.
06/11/2010(Xem: 21407)
Ẩn tu nào phải cố xa đời! Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi! Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng Bốn ân còn nặng nghĩa đền bồi.
04/11/2010(Xem: 4410)
Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo gia hộ cho thần thức người đã mất được nhẹ nhàng, siêu thoát về các cõi lành. Trong kinh Địa Tạng có nói rõ tác dụng của sự cầu nguyện cho người chết rằng: Trong 7 phần công đức, người cầu siêu được hưởng sáu phần, người chết chỉ hưởng được một phần mà thôi.
02/11/2010(Xem: 4602)
Điều cực kỳ quan trọng là phải biết đâu là cách thức tốt nhất để dẫn dắt đời sống hàng ngày của ta. Điều này tuỳ thuộc vào việc ta thấu hiểu những gì là hành động tâm linh và những gì không phải, sự khác biệt giữa Pháp và những gì không phải là Pháp. Những lợi lạc của sự thấu hiểu này thì thật vô biên, không thể tin nổi.
02/11/2010(Xem: 4641)
Trong khóa nhập thất Hayagriva Tối Mật tại Viện Vajrapani, Tháng Chín, Tháng Mười năm 1997, Lama Zopa Rinpoche đã ban cho các đệ tử lời khuyên dạy sau đây. Việc này xảy ra khi Rinpoche giải thích một luận văn dài cho sadhana (1) Hayagriva Tối Mật, khi giảng thêm về tiết đoạn quy y:
02/11/2010(Xem: 8564)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567