Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm hiểu trào lưu Tịnh Độ tại Việt Nam.

22/04/201311:53(Xem: 5401)
Tìm hiểu trào lưu Tịnh Độ tại Việt Nam.

Tìm hiểu trào lưu Tịnh Độ tại Việt Nam

Thích Tâm Hải

---o0o---

Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độ là hết sức sâu đậm. Đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm và cần sự nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để xác định truyền thống tu học của người Phật tử Việt Nam, nhằm xây dựng các nguyên tắc tổ chức trong các tự viện nói riêng và đời sống tín ngưỡng, tu học của người Phật tử nói chung một cách hiệu quả, phù hợp với tâm lý, bối cảnh văn hóa và truyền thống của dân tộc. Vậy tư tưởng Tịnh độ du nhập Việt Nam bao giờ, phát triển ra sao và có đặc điểm gì, trong bài viết này, chúng tôi sẽ bước đầu tìm hiểu về những vấn đề trên qua các tư liệu hiện có.

1.Sự du nhập và phát triển của tín ngưỡng Tịnh độ tại Việt Nam

Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà được nhắc đến sớm nhất trong lịch sử Phật giáo VN là ở Cựu tạp thí dụ kinh, truyện 60. Pháp môn niệm Phật cũng đã được đề cập trong Lục độ tập kinh do Khương Tãng Hội (?-280) dịch sang chữ Hán. Đây là những bộ kinh xưa nhất lưu hành tại Việt Nam hiện biết được. Như vậy, ngay từ rất sớm, vào trước thế kỷ thứ III, trong khuynh hướng tư tưởng Phật giáo Đại thừa được giới thiệu tại nước ta, người Phật tử Việt Nam cũng đ� bước đầu được tiếp xúc với tín ngưỡng Tịnh độ (A Di Đà). Tư tưởng này đã đi vào đời sống tu tập của người Phật tử và trở thành một trong những trào lưu lớn mạnh ở thế kỷ thứ V với sự có mặt của các bản kinh quan trọng làm nền tảng cho nó là Vô lượng thọ (Quán thọ), (1) do sư Đàm Hoằng (?-455), một vị Tăng người Trung Quốc chuyên hành trì pháp môn Tịnh độ với ước nguyện vãng sinh Cực Lạc, đến việt Nam tu học tại nước ta truyền bá.

Theo Cao tãng truyện của Huệ Hạo, sư Đàm Hoằng (Thích Đàm Hoằng) người Hoang Châu, Trung Quốc, xuất gia từ nhỏ, là người giới hạnh tinh nghiêm, sâu sắc về Luật bộ. Khoảng năm 423, sư đến nước ta, ở tại ch�a Tiên Sơn, chuyên hành trì kinh Vô lượng thọ và Quán Vô lượng thọ. Năm 455 sư tự thiêu nhưng không thành vì giữa chừng học trò biết được và dập tắt lửa\. Sau đó, nhân cả thôn làng bận rộn vì gần có hội, cả chùa đều đi Phật sự, sư lén vào hang núi tự thiêu lần nữa\. Khi mọi người biết được đến nơi thì sư đã tịch. Tương truyền, hôm đó, dân làng nhìn thấy sư thân có sắc vàng, cỡi một con nai vàng, không nói năng gì mà đi về hướng Tây rất nhanh. Phật tử trong Tãng ngoài tục biết đó là điều thần dị n�n thu nhặt tro xương, dựng tháp để tôn thờ.

Nguyên nhân sự tự thiêu của sư Đàm Hoằng là do đâu? Như chúng ta biết, vào thế kỷ thứ V, tại nước ta đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt. Nền tư tưởng Phật giáo quyền nãng được thiết định mấy thế kỷ trước tỏ ra không còn sức thuyết phục trước bước phát triển của dân tộc, đặc biệt ở giai đoạn đấu tranh vận động cho sự ra đời của nhà nước độc lập Vạn Xuân. Những tranh luận này đã để lại cho chúng ta ngày nay tư liệu 6 lá thư giữa Lý Miễu và hai vị thầy của ông là các ngài Pháp Minh (k.370-460) và Đạo Cao (k.365-445), tranh luận xung quanh vấn đề tại sao nói Phật thần thông biến hóa nhưng người Phật tử không thấy chân hình của Ngài ở đời (nạn Phật bất kiến hình sự). Sự kiện tự thiêu của sư Đàm Hoằng xảy ra vào thời điểm cao trào của cuộc đấu tranh này và chắc chắn đó không phải là một trường hợp ngẫu nhiên. Thêm nữa, sư Đàm Hoằng tự thiêu là một sự kiện lớn thời bấy giờ. Bởi lẽ tiếng tăm của nó đ� vang dội vượt ra ngoài nước ta, đến cả Trung Quốc và mấy trăm nãm sau, Huệ Hạo đã ghi vào tác phẩm của mình là Cao tăng truyện. Phải chãng sự tự thi�u này, cùng với những tương truyền về việc dân làng thấy điều thần dị là một câu trả lời trong nỗ lực củng cố niềm tin đối với nền tư tưởng Phật giáo quyền nãng, mà khuynh hướng Tịnh độ sư Đàm Hoằng chuyên tâm thực hành là một trong những đại biểu.

Như vậy, có thể nói rằng, ở thế kỷ thứ V, tư tưởng Tịnh độ đã phát triển và trở thành một trào lưu tại nước ta. Đó cũng là giai đoạn quan trọng với sự lưu hành rộng rãi các bộ kinh cãn bản của tư tưởng Tịnh độ mà chúng ta đã được biết qua tiểu sử của sư Đàm Hoằng, chùa Tiên Sơn. Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo, tức từ sau sư Đàm Hoằng đến nửa đầu thế kỷ thứ IX, chúng ta hiện không có tư liệu nào để lại đề cập đến Tịnh độ, mà mãi đến nãm 826, nó mới được nhắc đến trong bài kệ của sư Vô Ngôn Thông (759?-826) nói cho đệ tử là sư Cảm Thành (?-860). Trong bài kệ có câu : "Tây Thiên là đất này, Đất này là Tây Thiên " (Tây Thiên thử độ, Thử độ Tây Thiên ). Chữ Tây Thiên ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa, chỉ cho thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, đồng thời cũng có thể hiểu đó là nước Ấn Độ, quê hương của Phật giáo.

Từ giữa thế kỷ thứ XI trở đi, khuynh hướng Tịnh độ được phổ biến rộng rãi với sự hình thành của nhiều ngôi Tam bảo, đạo tràng Ẩ Đặc biệt là vào thờivua Lý Thánh Tông (1023-1072), nhà vua tuy thuộc thế hệ thứ 1 dòng thiền Thảo Đường, nhưng đã cho tạc một pho tượng Phật A Di Đà độc đáo có một không hai trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc của dân tộc hiện nay vẫn còn (2) và cho dựng một ngôi tháp để thờ tại ch�a Vạn Phúc. Ngoài ra, còn có tượng Phật A Di Đà do sư Trì Bát (1049-1117), người thuộc thế hệ thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, chủ trương tạo dựng năm 1099 (3), tượng A Di Đà trong hội Quảng Chiếu trước Đoan Môn, được tạo lập để cầu nguyện cho hoàng hậu Linh Nhân siêu sinh Tịnh độ (4) v.v.. Cùng với tín ngưỡng A Di Đà, tín ngưỡng Quán Thế Âm, vị Bồ tát thân cận của Phật A Di Đà, ở thời này cũng trở nên phổ biến. Từ giai đoạn này trở về sau, trên phương diện tín ngưỡng, trào lưu Tịnh độ đã thực sự có một vị trí quan trọng trong đời sống vãn hóa tâm linh của nhân dân ta.

Thế kỷ XII, qua một các tiểu truyện về các thiền sư được Thiền uyển tập anh ghi lại, chúng ta biết được có thiền sư mặc d� được coi là thuộc hệ truyền thừa của các thiền phái nhưng vẫn hành trì theo pháp môn này, chẳng hạn Thiền sư Tịnh Lực (1111-1175), thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông, 12 thời thực hành sám hối và thâm nhập được pháp môn niệm Phật tam muội (5); Thiền sư Trì Bát "nhân tưởng niệm Phật A Di Đà ở thế giới Phương Tây Cực Lạc, nên đã phổ khuyến đạo tục, dựng một đạo tràng lớn " (6). Đến đời Trần, các nhà tư tưởng lớn như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông Ẩ cũng bàn đến vấn đề niệm Phật. Tư tưởng Tịnh độ với cơ bản là quan niệm về Đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện của Ngài cũng được đặt ra trong các kỳ thi tuyển nhân tài do triều đình tổ chức mà hiện biết được qua bài thi của tiến sĩ Lê Ích Mộc (1459-?), kỳ thi năm 1502. Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân tông chủ trương cũng có nói về Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc, tuy ở một sắc thái khác, chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau.

Sự phát triển này ngày mỗi mạnh mẽ, nhất là từ cuối thế kỷ XVI trở đi\. Nhiều tác phẩm về Tịnh độ được viết, phi�n âm và chú giải nhằm cổ súy và truyền bá cho trào lưu này. Có thể kể một vài tên tuổi như ngài Viên Văn (1590-1644) viết tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa, thuyết minh về Tự tính Di Đà; thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1708) phiên âm A Di Đà kinh sớ sao của ngài Châu Hoằng; thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) với nhiều tác phẩm mang đặc điểm tư tưởng Tịnh độ của Trung Hoa như Phật tâm luận, Tịnh độ yếu nghĩa , đặc biệt là đã cho thiết kế ba đài Liên hoa cửu phẩm làm pháp khí trong lễ nghi thực hành niệm Phật (7); thiền sư Tánh Thiên với Phổ khuyến niệm Phật, v.v.. Sự phát triển đó được tiếp nối cho đến ngày nay, chúng ta có thể thấy tín ngưỡng và pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Cực lạc là một trong những khuynh hướng tín ngưỡng lớn, nếu không nói là chủ yếu, của Phật giáo nước ta hiện tại\. Tuy nhiên, quan niệm Tịnh độ của người Phật tử Việt Nam mang những điểm đặc th�, dẫu có sự ảnh hưởng nhưng vẫn khác biệt so với Tịnh độ tông của Trung Hoa hay của Nhật Bản.

2.Đặc điểm của trào lưu Tịnh độ tại Việt Nam

Nói "trào lưu" mà không phải là "tông phái", đây cũng là một trong những đặc điểm về sự phát triển của tư tưởng Tịnh độ tại Việt Nam.

Sự lưu hành của các bộ kinh quan trọng thuộc hệ tư tưởng Tịnh độ là Vô lượng thọ và quán Vô lượng thọ ở nước ta vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ V là một điều đáng chú ý, nó cho phép chúng ta nghĩ rằng Việt Nam thời bấy giờ có thể là một trung tâm Tịnh độ có tiếng tãm ở vùngg Viễn Đông mà chùa Tiên Sơn, nơi sư Đàm Hoằng, một vị Tăng Trung Quốc chọn làm chỗ dừng chân tu tập, là một thí dụ. Bởi khi sư Đàm Hoằng đến ch�a Tiên Sơn, sau năm 422, cách thời điểm thành lập Bạch Liên xã của ngài Huệ Viễn (334-416), người sáng lập Tịnh độ tông ở Trung Hoa, chỉ khoảng 20 nãm (nãm 402).

Tuy du nhập Việt Nam từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Tây lịch, được phổ biến và trở thành một trong những trào lưu chủ yếu của đời sống tín ngưỡng của Phật giáo nước ta, và dẫu có lúc phát triển mạnh mẽ, nhưng tư tưởng Tịnh độ không như ở Trung Hoa và Nhật Bản, hình thành một tông phái với chủ trương, lịch sử truyền thừa chặt chẽ và độc lập, tách biệt với các tông phái khác như Thiền, Mật hay Luật tông. Ở nước ta, nó không đứng biệt lập và không hề thấy xảy ra những tranh luận với các hệ tư tưởng khác cũng như đấu tranh trong tự thân nó để phát triển. Vậy, đặc điểm chung của tư tưởng Tịnh độ tại nước ta là thế nào?

Để có một nhận định chính xác về điều này, chúng ta cần khảo sát và so sánh với Tịnh độ tông ở Trung Hoa và Nhật Bản. Tuy nhiên, ở khuôn khổ một bài báo, chúng tôi không tiện làm việc đó và cũng không thể khảo sát sự phát triển, các mặt tư tưởng của trào lưu này ở các giai đoạn lịch sử, mà chỉ đưa ra vài nhận xét bước đầu qua một số quan niệm đặc th� mang tính chủ yếu mà thôi.

Như đã nói, từ thời vua Lý Thánh Tông, trào lưu Tịnh độ đã phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, các quan niệm bàn luận về A Di Đà và Tịnh độ thì mãi đến thế kỷ XIII mới được vua Trần Thái Tông (1218-1277) đề cập một cách chính thức. Trong sách Khoá hư lục, Trần Thái Tông đã có hẳn một đề mục là "Niệm Phật luận", bàn về những lợi ích của phương pháp niệm Phật. Nhà vua quan niệm con người có ba loại : thượng, trung và hạ trí. Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, do đó pháp môn niệm Phật chỉ dành cho hai đối tượng là trung và hạ trí. Bên cạnh đó, cũng trong tác phẩm này, về phương diện thực hành, Trần Thái Tông cũng đã soạn "Lục thời sám hối khoa nghi" mà kính lễ Phật a Di Đà và các vị Bồ tát thân cận để sám hối nghiệp chướng là chủ yếu\. tự tính Di Đà và Tịnh độ được Trần Thái Tông quan niệm chỉ có ở ngay hiện tiền, trong tâm của con người này mà không phải thuộc một quốc độ khác tồn tại ngoài thế gian. Quan điểm đó cũng thống nhất trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) và Trần Nhân Tông (1258-1308) (8). Như vậy, trên mặt lý luận, quan niệm Tịnh độ ở đây được nhìn và giải thích theo đôi mắt thiền. Đấy là một trong những đặc điểm của trào lưu Tịnh độ ở giai đoạn thời Trần nói ri�ng và cũng là một trong những đặc điểm cãn bản tr�n phương diện lý luận của tư tưởng Tịnh độ tại Việt Nam nói chung.

Sau đó, từ thế kỷ XVII trở đi, tư tưởng Tịnh độ tông Trung Hoa cũng đã được giới thiệu và truyền bá ở nước ta, bắt đầu là sư Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644) với tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa, Minh Châu Hương Hải với A Di Đà kinh sớ sao, tư tưởng của ngài Châu Hoằng qua sự giới thiệu của sư Chân Nguyên . Những mô tả về sự toàn thiện của thế giới Cực lạc, chủ trương niệm Phật để nhẹ nghiệp chướng được phước đức trong đời này, vãng sinh về thế giới Cực lạc sau khi chết cũng được truyền bá rộng rãi, phù hợp với nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của đông đảo quần chúng Phật tử, nhất là cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX,

khi đất nước ta đang rơi vào một hoàn cảnh bị xâm lược, đời sống nhân dân cơ cực lầm than dưới sự đô hộ khắc nghiệt của thực dân Pháp (9). Cũng trong giai đoạn này, nhiều nhóm chuyên thực hành niệm Phật (Liên Trì xã, Niệm Phật liên xã ) được thành lập khắp nơi trong nước. Dấu ấn của cao trào này được thấy qua Phổ khuyến niệm Phật của Thiền sư Tánh Thiên (1784-1847), các tác phẩm của thiền sư Toàn Nhật (1755-1832), Phật Thầy Tây An Ố Đoàn Minh Huyên (1807-1856), các sư Tâm Truyền (1832-1911), Phước Huệ (1875-1863) v.v.

Tóm lại, trào lưu Tịnh độ ở nước ta dẫu có một lịch sử lâu dài nhưng không tự thân phát triển thành một tông phái, không có vị trí độc lập, tách biệt với các pháp môn khác; đồng thời cũng không phong phú trong lý luận và phương pháp thực hành như Tịnh độ tông Trung Hoa hay Nhật Bản. Ở phương diện lý luận, Đức Phật A Di Đà chủ yếu được quan niệm như một mẫu hình con người lý tưởng tuyệt đối và phương pháp thực hành nổi bật gần như duy nhất là phương pháp niệm Phật. Sự không tách biệt độc lập này, có lẽ thuộc về đặc tính của dân tộc ta, cũng như đã thấy trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, qua sự ra đời, sinh hoạt và truyền thừa của các dòng thiền. Dẫu là thiền sư, nhưng trong thực hành tâm linh thì vẫn trì tụng thần chú và niệm danh hiệu Phật. Trường hợp các thiền sư Lý Thánh Tông, Tịnh Lực, Trì Bát, Trần Nhân Tông v.vẨ. đã nói sơ lược trên có thể xem là những tiêu biểu.

Tư tưởng Tịnh độ cũng đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh, vãn hoá, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam nói riêng và của dân tộc ta nói chung, đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật (văn học, kiến trúc, điêu khắc.). Chúng tôi hy vọng sẽ giới thiệu đến độc giả những ảnh hưởng này một cách tập trung hơn vào dịp khác, nhằm góp phần vào việc tìm hiểu những điểm đặc thù của tư tưởng và phương pháp thực hành tâm linh trong truyền thống Phật giáo Việt Nam.

1. Vô lượng thọ kinh chủ yếu trình bày những tiền thân của Đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện lớn của Ngài khi chưa thành Phật, khi còn là một tỳ kheo có tên là Pháp Tạng (Dharmakara). Quán vô lượng thọ chủ yếu nói về 16 phép quán liên hệ đến thế giới của Đức Phật A Di Đà và các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí.

2. Tượng được tạc vào nãm 1066, hiện được thờ tại chuà Phật Tích (Vạn Phúc tự), thuộc tỉnh Bắc Ninh.

3. Chuà Một Mái, tức chùa Hoàng Kim, nay thuộc xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây\.

4. Theo văn bia tháp Song Thiện Diên Linh ở chùa Đọi.

5. Xem tiểu truyện Thiền sư Tịnh lực, trong Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb. TPHCM, 1999, trang 223.

6. Theo những dòng chữ khắc trên bệ tượng hình sư tử đội tòa sen ở chùa Một Mái, xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây

7. Một trong các đài Liên hoa cửu phẩm đó hiện còn tại chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), tỉnh Bắc Ninh.

8. Trong bài phú nổi tiếng nói lên chủ trương của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử : "Cư trần lạc đạo phú", ngài Trần Nhân Tông đã viết : "Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương, Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.".

9. Chẳng hạn, trong Phổ khuyến niệm Phật, thiền sư Tánh Thiên đã viết :

"Niệm Phật tội nghiệp tiêu khô
Như sương tan nắng như hồ nước trong
Niệm Phật để đặng tấm lịng
Kẻo mà trắc ẩn mắc vòng gian nan
Niệm Phật Cực lạc hân hoan
Ta bà khổ não giàu sang mấy hồi



Source : Nguyệt San Giác Ngộ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/04/2012(Xem: 9998)
Ban cho với lòng vị tha có ý nghĩa rèn luyện từ chiều sâu của trái tim trong một thái độ rộng lượng chẳng hạn mà chúng ta không tìm cầu bất cứ một phần thưởng hay kết quả nào cho chính mình. Hãy nghĩ về hành vi từ thiện và tất cả những lợi ích của nó như chỉ hướng đến lợi ích của người khác. Mặc dù từ thiện có thể được tiến hành bởi những ai tìm kiếm lợi ích cho chính họ, chẳng hạn như ai đấy hiến tặng từ thiện nhằm để trở nên nổi tiếng, bố thí vị tha hoàn toàn không liên hệ đến lòng vị kỷ.
18/04/2012(Xem: 5794)
Giống như năm yếu tố của môi trường vật chất - không, đất, nước, lửa, và gió - là vô giới hạn, vì thế chúng sinh mà con người vị tha tìm cầu để hướng dẫn ra khỏi khổ đau tới thể trạng giác ngộ là vô giới hạn trong con số. Sức mạnh trái tim của Bồ tát là như thế, các ngài cam kết với nhiệm vụ này trong việc hổ trợ tất cả chúng sinh - mà không có bất cứ giới hạn nào của thân hay thù, quốc gia hay chủng tộc - từ mỗi một loại khổ đau.
18/04/2012(Xem: 5268)
Một khi đã phát sinh thái độ vị tha đặc biệt là tự chúng ta phải mang đến lợi ích cho tất cả chúng sinh bằng việc giải thoát họ khỏi khổ đau và nổi kết họ với hạnh phúc, chúng ta phải lượng định chúng ta có khả năng để hoàn thành điều này hay không trong tình trạng hiện tại. Hầu hết chúng ta thường sẽ quyết định rằng chúng ta không có. Thế thì tiến hành như thế nào?
14/04/2012(Xem: 5371)
Cùng với từ ái, bi mẫn là khuôn mặt của lòng vị tha. Đấy là một cảm giác từ chiều sâu của trái tim mà chúng ta không chịu đựng nổi khổ đau của người khác mà không hành động để giải thoát. Khi bi mẫn được lớn mạnh hơn, ý chí của chúng ta cũng lớn lên tương ứng để chính mình cố gắng vì ợi ích của tất cả chúng sinh, ngay cả nếu ta phải làm việc ấy đơn độc.
13/04/2012(Xem: 14615)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
12/04/2012(Xem: 3981)
Về nhà chỉ có một lối, nhưng phương tiện thì có nhiều ngã. Đức Phật dạy có nhiều pháp môn tu, nhưng chuyên tu một pháp nào cũng đều được liễu ngộ cả.
12/04/2012(Xem: 5412)
Phật Pháp Cao Siêu Khó Nghĩ Bàn Là Người Học Đạo Lắm Gian Nan Siêng Tu Tịnh độ Đúng Chân Lý Quyết Được Vãng Sanh Đến Lạc Bang. Ánh hào quang của Đấng Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni tỏa ra vô vàng tia sáng chiếu khắp vũ trụ nhân sinh. Lúc ấy đã biểu hiện được lòng từ bi bao la của Đức Phật, xoa dịu bao vết đau thương của tất cả chúng sanh và ban nguồn an vui bất tận cho muôn loài. Giáo lý của Đức Thế Tôn quả là cao siêu tuyệt diệu, có đủ năng lực đưa người từ bến mê sang bờ giác, từ sanh tử đến quả vị Niết bàn an vui tự tại, nếu ai thực hiện tu theo giáo pháp của Ngài đã thuyết.
07/04/2012(Xem: 5166)
Lời Khai Thị Của Ấn Quang Đại Sư Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành tựu việc tốt cho người. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn: hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm. Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương. Chỉ nên chăm sóc việc nhà mình, đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dạng tốt đẹp, đừng để mắt tới những hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người đều là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu. Nếu quả có thể tu hành được như những đ
06/04/2012(Xem: 6962)
Chúng ta phải biết rằng: Nếu người học đạo mà chưa hiểu thấu rõ cái nguồn cội của tự tâm và vạn pháp thì không thể nào rời Phật ra được.
06/04/2012(Xem: 3827)
Người niệm Phật mà được sự hộ niệm của chư Phật, nhiếp trì nguyện lực của Phật A Di Đà thì lúc mạng chung vào thẳng ngôi bất thoái, tự giác tiến tu thẳng đến thành Phật. Kinh A Di Đà nói: “Những chúng sinh sinh lên nước ta đều là bất thoái chuyển, trong số đó có rất nhiều người một đời được bổ xứ làm Phật, số ấy rất nhiều, không thể tính đếm hết được”. Suy xét câu một đời được bổ xứ thành Phật, tức là thân sau chót, như vậy há không phải một đời tức được thành Phật sao?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]