Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm hiểu trào lưu Tịnh Độ tại Việt Nam.

22/04/201311:53(Xem: 4779)
Tìm hiểu trào lưu Tịnh Độ tại Việt Nam.

Tìm hiểu trào lưu Tịnh Độ tại Việt Nam

Thích Tâm Hải

---o0o---

Qua thực tế sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng dấu ấn của pháp môn Tịnh độ là hết sức sâu đậm. Đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm và cần sự nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để xác định truyền thống tu học của người Phật tử Việt Nam, nhằm xây dựng các nguyên tắc tổ chức trong các tự viện nói riêng và đời sống tín ngưỡng, tu học của người Phật tử nói chung một cách hiệu quả, phù hợp với tâm lý, bối cảnh văn hóa và truyền thống của dân tộc. Vậy tư tưởng Tịnh độ du nhập Việt Nam bao giờ, phát triển ra sao và có đặc điểm gì, trong bài viết này, chúng tôi sẽ bước đầu tìm hiểu về những vấn đề trên qua các tư liệu hiện có.

1.Sự du nhập và phát triển của tín ngưỡng Tịnh độ tại Việt Nam

Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà được nhắc đến sớm nhất trong lịch sử Phật giáo VN là ở Cựu tạp thí dụ kinh, truyện 60. Pháp môn niệm Phật cũng đã được đề cập trong Lục độ tập kinh do Khương Tãng Hội (?-280) dịch sang chữ Hán. Đây là những bộ kinh xưa nhất lưu hành tại Việt Nam hiện biết được. Như vậy, ngay từ rất sớm, vào trước thế kỷ thứ III, trong khuynh hướng tư tưởng Phật giáo Đại thừa được giới thiệu tại nước ta, người Phật tử Việt Nam cũng đ� bước đầu được tiếp xúc với tín ngưỡng Tịnh độ (A Di Đà). Tư tưởng này đã đi vào đời sống tu tập của người Phật tử và trở thành một trong những trào lưu lớn mạnh ở thế kỷ thứ V với sự có mặt của các bản kinh quan trọng làm nền tảng cho nó là Vô lượng thọ (Quán thọ), (1) do sư Đàm Hoằng (?-455), một vị Tăng người Trung Quốc chuyên hành trì pháp môn Tịnh độ với ước nguyện vãng sinh Cực Lạc, đến việt Nam tu học tại nước ta truyền bá.

Theo Cao tãng truyện của Huệ Hạo, sư Đàm Hoằng (Thích Đàm Hoằng) người Hoang Châu, Trung Quốc, xuất gia từ nhỏ, là người giới hạnh tinh nghiêm, sâu sắc về Luật bộ. Khoảng năm 423, sư đến nước ta, ở tại ch�a Tiên Sơn, chuyên hành trì kinh Vô lượng thọ và Quán Vô lượng thọ. Năm 455 sư tự thiêu nhưng không thành vì giữa chừng học trò biết được và dập tắt lửa\. Sau đó, nhân cả thôn làng bận rộn vì gần có hội, cả chùa đều đi Phật sự, sư lén vào hang núi tự thiêu lần nữa\. Khi mọi người biết được đến nơi thì sư đã tịch. Tương truyền, hôm đó, dân làng nhìn thấy sư thân có sắc vàng, cỡi một con nai vàng, không nói năng gì mà đi về hướng Tây rất nhanh. Phật tử trong Tãng ngoài tục biết đó là điều thần dị n�n thu nhặt tro xương, dựng tháp để tôn thờ.

Nguyên nhân sự tự thiêu của sư Đàm Hoằng là do đâu? Như chúng ta biết, vào thế kỷ thứ V, tại nước ta đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt. Nền tư tưởng Phật giáo quyền nãng được thiết định mấy thế kỷ trước tỏ ra không còn sức thuyết phục trước bước phát triển của dân tộc, đặc biệt ở giai đoạn đấu tranh vận động cho sự ra đời của nhà nước độc lập Vạn Xuân. Những tranh luận này đã để lại cho chúng ta ngày nay tư liệu 6 lá thư giữa Lý Miễu và hai vị thầy của ông là các ngài Pháp Minh (k.370-460) và Đạo Cao (k.365-445), tranh luận xung quanh vấn đề tại sao nói Phật thần thông biến hóa nhưng người Phật tử không thấy chân hình của Ngài ở đời (nạn Phật bất kiến hình sự). Sự kiện tự thiêu của sư Đàm Hoằng xảy ra vào thời điểm cao trào của cuộc đấu tranh này và chắc chắn đó không phải là một trường hợp ngẫu nhiên. Thêm nữa, sư Đàm Hoằng tự thiêu là một sự kiện lớn thời bấy giờ. Bởi lẽ tiếng tăm của nó đ� vang dội vượt ra ngoài nước ta, đến cả Trung Quốc và mấy trăm nãm sau, Huệ Hạo đã ghi vào tác phẩm của mình là Cao tăng truyện. Phải chãng sự tự thi�u này, cùng với những tương truyền về việc dân làng thấy điều thần dị là một câu trả lời trong nỗ lực củng cố niềm tin đối với nền tư tưởng Phật giáo quyền nãng, mà khuynh hướng Tịnh độ sư Đàm Hoằng chuyên tâm thực hành là một trong những đại biểu.

Như vậy, có thể nói rằng, ở thế kỷ thứ V, tư tưởng Tịnh độ đã phát triển và trở thành một trào lưu tại nước ta. Đó cũng là giai đoạn quan trọng với sự lưu hành rộng rãi các bộ kinh cãn bản của tư tưởng Tịnh độ mà chúng ta đã được biết qua tiểu sử của sư Đàm Hoằng, chùa Tiên Sơn. Tuy nhiên, giai đoạn tiếp theo, tức từ sau sư Đàm Hoằng đến nửa đầu thế kỷ thứ IX, chúng ta hiện không có tư liệu nào để lại đề cập đến Tịnh độ, mà mãi đến nãm 826, nó mới được nhắc đến trong bài kệ của sư Vô Ngôn Thông (759?-826) nói cho đệ tử là sư Cảm Thành (?-860). Trong bài kệ có câu : "Tây Thiên là đất này, Đất này là Tây Thiên " (Tây Thiên thử độ, Thử độ Tây Thiên ). Chữ Tây Thiên ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa, chỉ cho thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, đồng thời cũng có thể hiểu đó là nước Ấn Độ, quê hương của Phật giáo.

Từ giữa thế kỷ thứ XI trở đi, khuynh hướng Tịnh độ được phổ biến rộng rãi với sự hình thành của nhiều ngôi Tam bảo, đạo tràng Ẩ Đặc biệt là vào thờivua Lý Thánh Tông (1023-1072), nhà vua tuy thuộc thế hệ thứ 1 dòng thiền Thảo Đường, nhưng đã cho tạc một pho tượng Phật A Di Đà độc đáo có một không hai trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc của dân tộc hiện nay vẫn còn (2) và cho dựng một ngôi tháp để thờ tại ch�a Vạn Phúc. Ngoài ra, còn có tượng Phật A Di Đà do sư Trì Bát (1049-1117), người thuộc thế hệ thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, chủ trương tạo dựng năm 1099 (3), tượng A Di Đà trong hội Quảng Chiếu trước Đoan Môn, được tạo lập để cầu nguyện cho hoàng hậu Linh Nhân siêu sinh Tịnh độ (4) v.v.. Cùng với tín ngưỡng A Di Đà, tín ngưỡng Quán Thế Âm, vị Bồ tát thân cận của Phật A Di Đà, ở thời này cũng trở nên phổ biến. Từ giai đoạn này trở về sau, trên phương diện tín ngưỡng, trào lưu Tịnh độ đã thực sự có một vị trí quan trọng trong đời sống vãn hóa tâm linh của nhân dân ta.

Thế kỷ XII, qua một các tiểu truyện về các thiền sư được Thiền uyển tập anh ghi lại, chúng ta biết được có thiền sư mặc d� được coi là thuộc hệ truyền thừa của các thiền phái nhưng vẫn hành trì theo pháp môn này, chẳng hạn Thiền sư Tịnh Lực (1111-1175), thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Vô Ngôn Thông, 12 thời thực hành sám hối và thâm nhập được pháp môn niệm Phật tam muội (5); Thiền sư Trì Bát "nhân tưởng niệm Phật A Di Đà ở thế giới Phương Tây Cực Lạc, nên đã phổ khuyến đạo tục, dựng một đạo tràng lớn " (6). Đến đời Trần, các nhà tư tưởng lớn như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông Ẩ cũng bàn đến vấn đề niệm Phật. Tư tưởng Tịnh độ với cơ bản là quan niệm về Đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện của Ngài cũng được đặt ra trong các kỳ thi tuyển nhân tài do triều đình tổ chức mà hiện biết được qua bài thi của tiến sĩ Lê Ích Mộc (1459-?), kỳ thi năm 1502. Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử do Trần Nhân tông chủ trương cũng có nói về Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc, tuy ở một sắc thái khác, chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau.

Sự phát triển này ngày mỗi mạnh mẽ, nhất là từ cuối thế kỷ XVI trở đi\. Nhiều tác phẩm về Tịnh độ được viết, phi�n âm và chú giải nhằm cổ súy và truyền bá cho trào lưu này. Có thể kể một vài tên tuổi như ngài Viên Văn (1590-1644) viết tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa, thuyết minh về Tự tính Di Đà; thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628-1708) phiên âm A Di Đà kinh sớ sao của ngài Châu Hoằng; thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) với nhiều tác phẩm mang đặc điểm tư tưởng Tịnh độ của Trung Hoa như Phật tâm luận, Tịnh độ yếu nghĩa , đặc biệt là đã cho thiết kế ba đài Liên hoa cửu phẩm làm pháp khí trong lễ nghi thực hành niệm Phật (7); thiền sư Tánh Thiên với Phổ khuyến niệm Phật, v.v.. Sự phát triển đó được tiếp nối cho đến ngày nay, chúng ta có thể thấy tín ngưỡng và pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sinh Cực lạc là một trong những khuynh hướng tín ngưỡng lớn, nếu không nói là chủ yếu, của Phật giáo nước ta hiện tại\. Tuy nhiên, quan niệm Tịnh độ của người Phật tử Việt Nam mang những điểm đặc th�, dẫu có sự ảnh hưởng nhưng vẫn khác biệt so với Tịnh độ tông của Trung Hoa hay của Nhật Bản.

2.Đặc điểm của trào lưu Tịnh độ tại Việt Nam

Nói "trào lưu" mà không phải là "tông phái", đây cũng là một trong những đặc điểm về sự phát triển của tư tưởng Tịnh độ tại Việt Nam.

Sự lưu hành của các bộ kinh quan trọng thuộc hệ tư tưởng Tịnh độ là Vô lượng thọ và quán Vô lượng thọ ở nước ta vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ V là một điều đáng chú ý, nó cho phép chúng ta nghĩ rằng Việt Nam thời bấy giờ có thể là một trung tâm Tịnh độ có tiếng tãm ở vùngg Viễn Đông mà chùa Tiên Sơn, nơi sư Đàm Hoằng, một vị Tăng Trung Quốc chọn làm chỗ dừng chân tu tập, là một thí dụ. Bởi khi sư Đàm Hoằng đến ch�a Tiên Sơn, sau năm 422, cách thời điểm thành lập Bạch Liên xã của ngài Huệ Viễn (334-416), người sáng lập Tịnh độ tông ở Trung Hoa, chỉ khoảng 20 nãm (nãm 402).

Tuy du nhập Việt Nam từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Tây lịch, được phổ biến và trở thành một trong những trào lưu chủ yếu của đời sống tín ngưỡng của Phật giáo nước ta, và dẫu có lúc phát triển mạnh mẽ, nhưng tư tưởng Tịnh độ không như ở Trung Hoa và Nhật Bản, hình thành một tông phái với chủ trương, lịch sử truyền thừa chặt chẽ và độc lập, tách biệt với các tông phái khác như Thiền, Mật hay Luật tông. Ở nước ta, nó không đứng biệt lập và không hề thấy xảy ra những tranh luận với các hệ tư tưởng khác cũng như đấu tranh trong tự thân nó để phát triển. Vậy, đặc điểm chung của tư tưởng Tịnh độ tại nước ta là thế nào?

Để có một nhận định chính xác về điều này, chúng ta cần khảo sát và so sánh với Tịnh độ tông ở Trung Hoa và Nhật Bản. Tuy nhiên, ở khuôn khổ một bài báo, chúng tôi không tiện làm việc đó và cũng không thể khảo sát sự phát triển, các mặt tư tưởng của trào lưu này ở các giai đoạn lịch sử, mà chỉ đưa ra vài nhận xét bước đầu qua một số quan niệm đặc th� mang tính chủ yếu mà thôi.

Như đã nói, từ thời vua Lý Thánh Tông, trào lưu Tịnh độ đã phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, các quan niệm bàn luận về A Di Đà và Tịnh độ thì mãi đến thế kỷ XIII mới được vua Trần Thái Tông (1218-1277) đề cập một cách chính thức. Trong sách Khoá hư lục, Trần Thái Tông đã có hẳn một đề mục là "Niệm Phật luận", bàn về những lợi ích của phương pháp niệm Phật. Nhà vua quan niệm con người có ba loại : thượng, trung và hạ trí. Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, do đó pháp môn niệm Phật chỉ dành cho hai đối tượng là trung và hạ trí. Bên cạnh đó, cũng trong tác phẩm này, về phương diện thực hành, Trần Thái Tông cũng đã soạn "Lục thời sám hối khoa nghi" mà kính lễ Phật a Di Đà và các vị Bồ tát thân cận để sám hối nghiệp chướng là chủ yếu\. tự tính Di Đà và Tịnh độ được Trần Thái Tông quan niệm chỉ có ở ngay hiện tiền, trong tâm của con người này mà không phải thuộc một quốc độ khác tồn tại ngoài thế gian. Quan điểm đó cũng thống nhất trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) và Trần Nhân Tông (1258-1308) (8). Như vậy, trên mặt lý luận, quan niệm Tịnh độ ở đây được nhìn và giải thích theo đôi mắt thiền. Đấy là một trong những đặc điểm của trào lưu Tịnh độ ở giai đoạn thời Trần nói ri�ng và cũng là một trong những đặc điểm cãn bản tr�n phương diện lý luận của tư tưởng Tịnh độ tại Việt Nam nói chung.

Sau đó, từ thế kỷ XVII trở đi, tư tưởng Tịnh độ tông Trung Hoa cũng đã được giới thiệu và truyền bá ở nước ta, bắt đầu là sư Viên Văn Chuyết Chuyết (1590-1644) với tác phẩm Bồ đề yếu nghĩa, Minh Châu Hương Hải với A Di Đà kinh sớ sao, tư tưởng của ngài Châu Hoằng qua sự giới thiệu của sư Chân Nguyên . Những mô tả về sự toàn thiện của thế giới Cực lạc, chủ trương niệm Phật để nhẹ nghiệp chướng được phước đức trong đời này, vãng sinh về thế giới Cực lạc sau khi chết cũng được truyền bá rộng rãi, phù hợp với nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của đông đảo quần chúng Phật tử, nhất là cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX,

khi đất nước ta đang rơi vào một hoàn cảnh bị xâm lược, đời sống nhân dân cơ cực lầm than dưới sự đô hộ khắc nghiệt của thực dân Pháp (9). Cũng trong giai đoạn này, nhiều nhóm chuyên thực hành niệm Phật (Liên Trì xã, Niệm Phật liên xã ) được thành lập khắp nơi trong nước. Dấu ấn của cao trào này được thấy qua Phổ khuyến niệm Phật của Thiền sư Tánh Thiên (1784-1847), các tác phẩm của thiền sư Toàn Nhật (1755-1832), Phật Thầy Tây An Ố Đoàn Minh Huyên (1807-1856), các sư Tâm Truyền (1832-1911), Phước Huệ (1875-1863) v.v.

Tóm lại, trào lưu Tịnh độ ở nước ta dẫu có một lịch sử lâu dài nhưng không tự thân phát triển thành một tông phái, không có vị trí độc lập, tách biệt với các pháp môn khác; đồng thời cũng không phong phú trong lý luận và phương pháp thực hành như Tịnh độ tông Trung Hoa hay Nhật Bản. Ở phương diện lý luận, Đức Phật A Di Đà chủ yếu được quan niệm như một mẫu hình con người lý tưởng tuyệt đối và phương pháp thực hành nổi bật gần như duy nhất là phương pháp niệm Phật. Sự không tách biệt độc lập này, có lẽ thuộc về đặc tính của dân tộc ta, cũng như đã thấy trong truyền thống Phật giáo Việt Nam, qua sự ra đời, sinh hoạt và truyền thừa của các dòng thiền. Dẫu là thiền sư, nhưng trong thực hành tâm linh thì vẫn trì tụng thần chú và niệm danh hiệu Phật. Trường hợp các thiền sư Lý Thánh Tông, Tịnh Lực, Trì Bát, Trần Nhân Tông v.vẨ. đã nói sơ lược trên có thể xem là những tiêu biểu.

Tư tưởng Tịnh độ cũng đã có những ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh, vãn hoá, tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam nói riêng và của dân tộc ta nói chung, đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật (văn học, kiến trúc, điêu khắc.). Chúng tôi hy vọng sẽ giới thiệu đến độc giả những ảnh hưởng này một cách tập trung hơn vào dịp khác, nhằm góp phần vào việc tìm hiểu những điểm đặc thù của tư tưởng và phương pháp thực hành tâm linh trong truyền thống Phật giáo Việt Nam.

1. Vô lượng thọ kinh chủ yếu trình bày những tiền thân của Đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện lớn của Ngài khi chưa thành Phật, khi còn là một tỳ kheo có tên là Pháp Tạng (Dharmakara). Quán vô lượng thọ chủ yếu nói về 16 phép quán liên hệ đến thế giới của Đức Phật A Di Đà và các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí.

2. Tượng được tạc vào nãm 1066, hiện được thờ tại chuà Phật Tích (Vạn Phúc tự), thuộc tỉnh Bắc Ninh.

3. Chuà Một Mái, tức chùa Hoàng Kim, nay thuộc xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây\.

4. Theo văn bia tháp Song Thiện Diên Linh ở chùa Đọi.

5. Xem tiểu truyện Thiền sư Tịnh lực, trong Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb. TPHCM, 1999, trang 223.

6. Theo những dòng chữ khắc trên bệ tượng hình sư tử đội tòa sen ở chùa Một Mái, xã Hoàng Ngô, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây

7. Một trong các đài Liên hoa cửu phẩm đó hiện còn tại chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự), tỉnh Bắc Ninh.

8. Trong bài phú nổi tiếng nói lên chủ trương của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử : "Cư trần lạc đạo phú", ngài Trần Nhân Tông đã viết : "Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi đến Tây phương, Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.".

9. Chẳng hạn, trong Phổ khuyến niệm Phật, thiền sư Tánh Thiên đã viết :

"Niệm Phật tội nghiệp tiêu khô
Như sương tan nắng như hồ nước trong
Niệm Phật để đặng tấm lịng
Kẻo mà trắc ẩn mắc vòng gian nan
Niệm Phật Cực lạc hân hoan
Ta bà khổ não giàu sang mấy hồi



Source : Nguyệt San Giác Ngộ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/04/2024(Xem: 63)
Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.
16/03/2024(Xem: 933)
Nam Mô có nghĩa là Trở về A, nghĩa là: vô Di Đà, nghĩa là: Lượng Phật, nghĩa là Giác, tánh biết Niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, có nghĩa là “ trở về với tánh giác vô lượng của bản thân mình, đó là A Di Đà tánh, là ông Phật của chính mình” Cứu cánh của Pháp môn Tịnh Độ là đạt tới điểm chung của Thiền cũng là khám phá ra ông chủ của mình . Tịnh Độ là ông Phật của chính mình chứ không phải ở ông Phật Tây Phương Cực Lạc. 🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
20/01/2024(Xem: 532)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
18/11/2023(Xem: 3207)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
23/10/2023(Xem: 4106)
Hôm nay là ngày 21/11/2020, là một ngày đáng để kỷ niệm. Từ hôm nay trở đi tôi bắt đầu phúc giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai, nguyện đem công đức này hồi hướng cho lão pháp sư thượng Tịnh hạ Không. Báo đáp ân sư ơn tri ngộ, Y giáo phụng hành an lòng Thầy. Ân pháp nhũ thật khó báo đáp, Toàn tâm toàn lực hoằng đại kinh. Thỉnh cầu ân sư thương xót chúng sanh khổ mà trụ thế độ quần manh! Chúng ta đều làm học trò ngoan biết nghe lời. Hôm nay là ngày 21/11/2020, là ngày kỷ niệm Bồ-tát Lưu Tố Thanh vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc tròn 8 năm, chúng tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai, lấy việc này biểu đạt sự tưởng nhớ và cảm ân sâu sắc của chúng ta dành cho Bồ-tát Lưu Tố Thanh.
18/04/2023(Xem: 3424)
Lời Giới Thiệu Sách “Nhân Hạnh Vãng Sanh” của Trí Khiêm
09/04/2023(Xem: 2116)
Trong quá trình chiến tranh Hoa Nhựt, một mặt Vương triều Nhật Bản muốn thiết lập một nền cai trị Đại Đông Á thống trị vùng Bắc Á và Đông Nam Á để khống chế về thu nhập tài nguyên kinh tế cho bản địa: Một mặt không phải người Nhật nào cũng muốn gây chiến tranh với các nước láng giềng, mà cần có sự giao lưu về văn hóa, văn học, tôn giáo, nên một số đông người Nhật đến Trung Hoa nghiên cứu học hỏi văn hóa lâu đời vào hàng thứ nhứt trên thế giới, văn hóa Khổng, văn hóa Lão Trang, văn hóa Phật Giáo, trong đó có giao lưu văn hóa Phật Giáo. do đó trong lĩnh vực hiệp hội Phật Giáo Trung Hoa do Đại sư Thái Hư sáng lập có những thành viên là người Nhựt, nên vấn đề ảnh hưởng các tông, phái Thiền Tịnh dành cho những người tu Phật của Phật
14/03/2023(Xem: 5296)
Trong xã hội bận rộn ngày nay, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm lý làm ảnh hưởng đến chất lượng sống, và đã đến lúc chúng ta cùng thư giãn, chú trọng đến sức khỏe tinh thần nhiều hơn. Cách thực hành dễ nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất là cùng Headspace, 10 phút thiền định mỗi ngày để thay đổi cuộc sống. Với những kiến thức mới về thiền trong bộ sách 3 cuốn rất mỏng và dễ đọc để ứng dụng này, chúng ta chắc chắn có lối sống tích cực, vui vẻ hơn và bình an hơn. Bộ sách gồm 3 cuốn mang đến những lợi ích khác nhau, từ quản lý sự căng thẳng đến trân trọng và biết ơn cuộc sống. Hướng dẫn những kỹ thuật căn bản nhất về thực hành thiền là mấu chốt để thay đổi cuộc sống của bất cứ ai may mắn đọc sách này.
20/10/2022(Xem: 1969)
Niệm Phật, cuối cùng thì bạn cũng đã đến đây! Cuối cùng thì bạn cũng đã bắt đầu khởi tâm tìm đường về “nhà”, sau biết bao nhiêu trầm luân, khổ hải của kiếp nhân sinh. Hết thảy những ai tìm đến niệm Phật, cũng đều là bởi một trong những nguyên nhân sau đây. Có phải bạn cũng thế hay không? Nghèo khó, gia đình suy vi khổ lụy, vợ con nay yếu mai đau, cửa nhà thiếu trước hụt sau. Bệnh nặng lâm thân, mà thuốc thang dây đưa không khỏi, mạng sống mong manh sớm tối. Cuộc sống bế tắc, gia đình bất hòa, anh em hoặc vợ chồng chẳng thuận, con cái ngỗ nghịch.
21/08/2022(Xem: 3579)
Lời dạy của Đức Phật, được ghi chép lại dưới dạng Kinh tạng. Hai ngàn sáu trăm năm đã trôi qua, bánh xe Đạo Pháp chuyển động không ngừng, dạy con người cách sống an lạc. Muốn sống an lạc, người học Phật phải liễu tri và hành trì, tu tập đúng lời Phật dạy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567