Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

IX. Báo điềm Nhập-diệt

17/05/201313:12(Xem: 9860)
IX. Báo điềm Nhập-diệt

Kinh Đại Bát Niết Bàn [1]

IX. Báo điềm Nhập-diệt

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu

Nguồn: Hán dịch: Đông Tấn, Sa Môn Thích Pháp Hiển

Bấy giờ, từ diện-môn đức Như-Lai, phóng ra nhiều hào-quang: xanh, vàng, đỏ, trắng, pha-lê, sắc hồng. Ông A-Nan liền đỉnh lễ xuống chân Phật, quỳ thẳng, chắp tay, bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Không biết có nhân-duyên gì, mà đức Thế-Tôn hiện ra thụy-tướng ấy?”
Đức Phật đáp: Ông A-Nan! Ông nên biết có hai thời Tôi phóng ra những hào-quang sáng lớn: Một là, khi Tôi sắp thành Phật ở dưới gốc cây Bồ-Đề, phóng ra hào-quang sáng lớn. Hai là, khi Tôi sắp nhập Niết-Bàn, phóng ra hào-quang sáng lớn.”
Ông A-Nan! Ông có biết không: Tôi thành Vô-Thượng Chính-Đẳng Chính-Giác, thuộc về ban đêm, khi gần sáng, thời khi tôi nhập Niết-Bàn cũng như thế! Ông nay nên biết: gần sáng đêm hôm nay, tôi sẽ nhập Niết-Bàn, khoảng hàng Sa-la song-thụ bên bờ sông Ni-liên, nơi Lực-sĩ sinh-địa[48], thuộc thành Cưu-thi-na!”
Đức Phật nói lời ấy rồi, các vị Tỳ-Khưu, chư Thiên trên hư-không, thương xót, kêu khóc, không tự hãm được.
Khi ấy, đức Thế-Tôn cùng các vị Tỳ-Khưu, đến sông Ca-khuất-ta. Đến đây, đức Thế-Tôn liền xuống sông tắm rửa. Tắm rửa xong. Ngài lại cùng các vị Tỳ-Khưu-Tăng, ngồi bên bờ sông.
Lúc đó, ông Thuần-Đà, tự trách tâm mình rằng: “Đức Thế-Tôn vì thụ bữa cơm cúng-dàng của ta, sinh ra đau bụng, mà sắp nhập Niết-Bàn chăng?”
Đức Thế-Tôn biết tâm ông Thuần-Đà nghĩ thế, Ngài liền bảo ông A-Nan: “Này ông A-Nan! Ông nay nên biết: hết thảy chúng-sinh, chớ nên trách mình rằng đức Như-Lai vì thụ bữa cơm cúng-dàng của ta, đến nỗi bị bệnh trong thân, mà nhập Niết-Bàn. Sao vậy? - Đức Như-Lai ra đời, có hai hạng người được phúc hơn hết: Một là, khi Như-Lai sắp thành Vô-Thượng Chính-Đẳng, Chính-Giác, đem món ăn lại dâng cúng. Hai là, khi Như-Lai sắp nhập Niết-Bàn, cúng-dàng bữa cơm sau cùng. Hai hạng người cúng-dàng ấy, phúc đều bằng nhau không khác và được quả-báo rất nhiều, không kể xiết được. Hai hạng người cúng-dàng như thế, kể khó gặp được cũng như hoa Ưu-đàm[49], bao thời, bao thời, mới có một lần!”
Đức Thế-Tôn liền bảo ông Thuần-Đà: “Ông Thuần-Đà! Tâm ý ông hiện nay chính có niệm ấy. Ông không nên tự sinh tâm hối-trách như thế. Ông đã được sự quý-báu vô-thượng khó được như thế, ông nên tự sinh ra tấm lòng vui mừng, may-mắn. Ông nên biết: Trong trăm, nghìn, muôn kiếp, khó được nghe thấy danh-hiệu Phật. Tuy có khi được nghe danh-hiệu Phật, nhưng, trông thấy được Phật lại khó. Tuy có khi trông thấy được Phật, nhưng, cúng-dàng được cũng khó. Tuy có khi được cúng-dàng, nhưng, được dự vào hai hạng cúng-dàng như trên, cũng lại rất khó. Ông nay đã được phúc-quả ấy, không bao lâu nữa, ông sẽ được biện-tài, trí-tuệ, sắc-lực và thọ-mệnh.”
Ông Thuần-Đà nghe đức Phật nói lời ấy, tâm sinh vui mừng không tự hãm được, bạch Phật rằng: “Sung-sướng thay, lạy đức Thế-Tôn! Nay con đã được lợi-ích lớn-lao như thế!”
Đức Thế-Tôn liền nói bài kệ:
“Người bố-thí được phúc,
Người từ-tâm không oán;
Người làm thiện khỏi ác,
Người ly-dục[50] không não.
Nếu làm hạnh như thế,
Không lâu, chứng Niết-Bàn.”
Đức Thế-Tôn nói bài kệ ấy rồi, Ngài bảo ông Thuần-Đà: “Ông Thuần-Đà! Nay ông nên đem việc phúc-báo trong sự cúng-dàng lần cuối cùng này, nói khắp cho mọi người nghe, làm cho những người được nghe ấy, được sự an-lạc mãi-mãi!”

TOÁT-YẾU


Sau khi độ ông Phất-ca-sa rồi, từ diện-môn, đức Thế-Tôn phóng ra hào-quang nhiều mầu.
Ông A-Nan không hiểu, đỉnh lễ hỏi Phật về nhân-duyên ấy, đức Phật dạy: “Có 2 thời-kỳ Tôi phóng hào-quang lớn là khi Tôi sắp thành-đạo dưới gốc Bồ-Đề và khi Tôi sắp nhập Niết-Bàn. Trước khi Tôi thành-đạo vào lúc gần sáng của ban đêm, thời nay Tôi nhập Niết-Bàn, cũng thế! Gần sáng đêm hôm nay Tôi sẽ nhập Niết-Bàn dưới hàng cây Sa-la song-thụ, bên bờ sông Ni-liên-thiền, nơi Lực-sĩ sinh-địa, thuộc thành Cưu-thi-na!”
Các vị Tỳ-Khưu cùng chư thiên trên hư-không đều buồn-rầu khóc-lóc!
Liền đó, đức Phật cùng chúng Tăng đi đến sông Ca-khuất-ta. Đến đây Ngài xuống sông tắm. Tắm xong, Ngài cùng tất cả ngồi nghỉ bên bờ sông.
Khi ấy ông Thuần-Đà tự-trách là do ông cúng cơm mà đức Phật đau, nhập-diệt. Ngài cảm thấy như thế, Ngài liền bảo ông A-Nan: “Chúng-sinh đừng ai có tâm-niệm rằng vì mình cúng cơm, mà Phật nhập-diệt. Vì, đức Như-Lai ra đời, ai cúng bữa cơm khi sắp thành-đạo và bữa cơm khi sắp nhập-diệt, được phúc-báo hơn cả.”
“Ông Thuần-Đà! Ông không nên nghĩ như vậy! Trong trăm, nghìn, muôn kiếp dễ nghe được hiệu Phật, dễ thấy được Phật, dễ cúng-dàng được Phật và dễ được dự vào hai buổi cúng-dàng như trên? Ông nên tự vui mừng, đã được phúc-báo ấy, không bao lâu ông sẽ được biện-tài, trí-tuệ, sắc-lực và thọ-mệnh. Nhân nào, quả ấy!”
“Vậy ông nên phổ-cáo cho mọi người biết về sự phúc-báo trong việc cúng-dàng lần cuối cùng này, để cho người nghe cùng được sự an-lạc.”



Chú thích


[48] Lực-sĩ sinh-địa: Nơi sinh-trưởng của phái Lực-sĩ, thành Cưu-thi-na.
[49] Hoa Ưu-đàm: Ưu-đàm gọi đủ là Ưu-đàm-ba-la (Udumbara), Tàu dịch là “Linh-thụy” (điềm linh- thiêng); “Thụy-ứng” (Ứng vào điềm tốt). Theo Pháp-Hoa văn-cú nói thời hoa này 3.000 năm một lần hiện, khi hoa ấy hiện ra thời có kim-luân-vương ra đời.
[50] Ly-dục: Xa-lìa dục-vọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 7001)
Đức phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ. Trong Kinh Bi Hoa nói rằng: "Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện trì".Khi ấy tại cõi Tản đề lam thế giới có vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ: một là Đông thắng thần châu, hai là Nam thiệm bộ châu, ba là Tây ngưu hóa châu, và bốn là Bắc cu lô châu, tiếng nhơn hiền đồn dậy bốn phương, đức từ thiện đượm nhuần khắp xứ, nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẳn lòng ái kính.
16/10/2010(Xem: 10698)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
05/10/2010(Xem: 702)
Kệ khai kinh Phật pháp cao siêu rất thẳm sâu, Trăm ngàn muôn kiếp khó tầm cầu. Con nay nghe thấy chuyên trì tụng, Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
11/09/2010(Xem: 589)
Kính lễ các Bổn Tôn! Ôi những đệ tử may mắn cao quý trong tương lai: nếu các con tìm kiếm sự nương tựa nơi ta, Orgyen,[2] hãy đi tới một nơi hẻo lánh và nghĩ tưởng về sự mỏi nhọc của vô thường và nỗi buồn của sinh tử. Điều này rất quan trọng. Hãy hoàn toàn giao phó các con cho ta – thân thể, trái tim, tinh thần. Hãy coi mọi nguồn mạch của sự hy vọng và nương tựa thì nằm ở trong ta, Orgyen, và hãy tin rằng ta hoàn toàn thấu hiểu những niềm vui, nỗi buồn, và hy vọng của các con. Đừng van nài ta bằng những vật cúng dường và tán thán. Hãy đặt sang một bên những sự tích tập.
20/06/2010(Xem: 8539)
Lò Hương vừa ngún chiên đàn. Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa. Lòng con kính ngưỡng thiết-tha. Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh. Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật. (3 lần)
09/06/2010(Xem: 608)
Kinh Duy Ma là bộ kinh Đại thừa có sớm nhất, phát sinh từ ngã rẽ của bộ phái Phật giáo và 10 điều phi pháp ở thành Tỳ Da Ly. Có thể nói kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”. Hai hình ảnh Văn Thù và Duy Ma là hai mẫu người mô phạm lý tưởng duy trì và bảo vệ chánh pháp còn mãi trên thế gian. Nối gót theo các Ngài trên bước đường tu, đi theo lộ trình của kinh Duy Ma, chúng ta không an trú Niết bàn, cũng không trước sanh tử, phải giải thoát ngay trên cuộc đời này. Nghĩa là với trí Bát Nhã quán sát, chúng ta không theo đuổi con đường hoàn toàn thế tục nhiễm ô, nhưng cũng không đi trên Thánh đạo xa lánh cuộc đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567