Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VII. Ông Thuần-Đà thỉnh Phật

17/05/201313:12(Xem: 10619)
VII. Ông Thuần-Đà thỉnh Phật

Kinh Đại Bát Niết Bàn [1]

VII. Ông Thuần-Đà thỉnh Phật

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu

Nguồn: Hán dịch: Đông Tấn, Sa Môn Thích Pháp Hiển

Sau đó, đức Thế-Tôn cùng các vị Tỳ-Khưu-Tăng từ tòa ngồi của mình đứng dậy, lại tiến về phía trước, đến thành Ba-ba. Khi ấy, bọn ông Phất-ba-dục-đế năm trăm người, thương xót kêu-khóc, kính-tiễn đức Như-Lai lên đường, họ bồi-hồi đoái nhìn mộ-kính, đến khi không trông thấy nữa, họ mới trở về.
Khi đức Thế-Tôn đến thành Ba-ba rồi, trong thành kia, có người con của một thợ khéo, tên là Thuần-Đà (Cunda). Nhà ông Thuần-Đà có một khu vườn, rất tĩnh-mịch, đức Như-Lai liền cùng các vị Tỳ-Khưu vây-quanh trước sau, đi đến vườn kia.
Ông Thuần-Đà nghe biết đức Phật cùng chúng Tăng đến vườn nhà mình, vui mừng hớn hở, không tự hãm được, ông cùng những người đồng loại, đều đến nơi Phật, đầu mặt lễ xuống chân Phật, rồi đứng lùi một bên, bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Chúng con không biết đức Thế-Tôn, có duyên gì tới đây, hoặc có ý-thú gì khác?”
Đức Thế-Tôn đáp: “Nay Tôi sở-dĩ đến đây, là vì không bao lâu nữa Tôi sẽ nhập Niết-Bàn, Tôi muốn tương kiến lần cuối cùng!”
Bấy giờ, ông Thuần-Đà cùng những người đồng loại của ông, nghe đức Phật nói lời ấy, tâm não-thương quá, buồn-bã lăn ra đất, ngất đi giờ lâu mới tỉnh, khẽ bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế-Tôn! Nay Ngài bỏ chúng-sinh, không đem lòng từ, niệm đến họ nữa hay sao mà Ngài muốn nhập Niết-Bàn? Kính xin Ngài hãy ở lại cõi thọ một kiếp hay non một kiếp!” Tức thời, ông lại bứt đầu, đấm ngực, kêu to: “Than ôi, khổ lắm thay! Con mắt của thế-gian mất rồi, hết thảy chúng-sinh từ nay về sau chìm-đắm trong bể sinh-tử, không có kỳ nào ra khỏi được! Sao vậy? Đấng Vô-Thượng Đạo-Sư nhập Niết-Bàn rồi!”
Đức Thế-Tôn bảo ông Thuần-Đà: “Nay ông không nên sinh tâm lo buồn, hết thảy mọi hành-tướng của các pháp đều như thế, đều bị vô-thường đổi dời; ân-ái hội-hợp, quyết có lúc ly-biệt, nên nay ông đừng sinh tâm lo-buồn nữa!”
Ông Thuần-Đà liền bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Nay chúng con cũng biết mọi hành-tướng là vô-thường, ân-ái hội-hợp đều phải biệt-ly nhưng, đấng Vô-Thượng-Tôn sẽ nhập Niết-Bàn, làm sao chúng con không thương-xót, áo-não được!”
Khi ấy, đức Thế-Tôn vì ông Thuần-Đà nói hết thảy pháp. Ông Thuần-Đà nghe rồi, tâm lo buồn hơi bớt, liền từ tòa ngồi của mình đứng dậy, thân chỉnh uy-nghi, chễ áo vai hữu, đỉnh lễ xuống chân Phật, bạch rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Ngày mai kính xin đức Thế-Tôn, nhận sự cúng-dàng đạm-bạc của chúng con!” Đức Thế-Tôn mặc nhiên ưng-thuận.
Lúc đó, ông Thuần-Đà biết đức Phật đã ưng-thuận, ông liễn lễ xuống chân Phật, lui về.
Ông Thuần-Đà về nhà, suốt đêm sắm-sửa nhiều thức ăn uống ngon lành. Ngày mai, khi sắp đến giờ ăn, ông sai người tín-thành tới bạch Phật: “Kính xin đức Thế-Tôn biết thì giờ thụ-trai, việc trai-soạn đã xong!”
Khi ấy, đức Như-Lai cùng các vị Tỳ-Khưu vây-quanh trước sau Ngài, đến nhà ông Thuần-Đà. Đến nơi, lần-lượt ngồi xuống. Ông Thuần-Đà thấy đức Phật ngồi rồi, ông liền đi lấy nước, tự tay châm-chước các đồ tinh-soạn xuống bát. Đức Thế-Tôn cùng chúng Tăng ăn xong, rửa bát, về chỗ ngồi cũ. Ông Thuần-Đà cũng ngồi. Đức Thế-Tôn bảo ông Thuần-Đà: “Nay ông đã làm được việc phúc hiếm có. Cúng-dàng cơm Phật và các vị Tỳ-Khưu-Tăng lần cuối cùng, quả-báo ấy, không bao giờ hết được. Mọi phúc của hết thảy chúng-sinh gieo-trồng, không có gì có thể so-sánh được với phúc cúng-dàng của ông, ông nên tự sinh ra tâm vui mừng. Nay lần cuối cùng ta nhận lời thỉnh của ông xong, Ta không nhận lời thỉnh cúng cơm của ai nữa!”
Đức Thế-Tôn liền nói bài kệ:
Ông nay đã dựng nên,
Một công-đức hiếm có;
Cuối cùng được cúng cơm,
Phật cùng Tỳ-Khưu-Tăng.
Công-đức ngày thêm lên,
Mãi mãi không cùng-kiệt.
Nay ông nên tự mình,
Sinh tâm rất vui mừng;
Hết thảy phúc người tạo,
Không sánh kịp phúc ông!

TOÁT-YẾU


Đến thành Ba-ba, đức Phật cùng chúng Tăng đến nghỉ tại khu vườn của nhà ông Thuần-Đà.
Ông Thuần-Đà cùng những người đồng-loại nghe biết, đến lễ Phật và thỉnh-vấn việc Ngài tới đây. Ngài dạy: “Tôi sắp nhập Niết-Bàn, nên Tôi muốn tới đây tương-kiến”.
Ông Thuần-Đà cùng mọi người nghe thấy thế buồn-rầu, kêu-khóc thỉnh Phật lưu lại thế-gian, thời Ngài đều an-ủi như bao người trước.
Tiếp đó, ông thỉnh Phật cùng chúng Tăng ngày mai hoan-hỷ tới nhà ông dùng cơm. Đức Phật im-lặng.
Sau bữa cơm, đức Phật bảo ông Thuần-Đà: Nay ông đã làm được việc phúc hiếm có là cúng-dàng Phật, chúng Tăng lần cuối cùng. Phúc-báo ấy không bao giờ hết được. Mọi phúc-báo của chúng-sinh, không thể so-sánh được với phúc-báo của ông. Ông nên khởi tâm vui mừng. Đây là lần cuối cùng Ta nhận lời thỉnh của ông thôi!”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/05/2020(Xem: 4360)
Muốn tu học theo Đạo Phật, muốn trở thành Phật tử thời chính bản thân mình phải có chí muốn thành Phật và tự nguyện sẽ thành Phật, vì biết mình có sẵn Phật tánh nên tự tin là mình sẽ thành Phật. Ai tu cũng được cả, dù giàu sang hay nghèo hèn, dù thông minh hay dốt nát, dù già hay trẻ. Tu càng sớm càng hay. Tu chỉ có nghĩa là “sửa đổi”, sửa xấu thành đẹp, sửa ác thành hiền, sửa si mê thành giác ngộ… Tu ở nhà, tu ngoài xã hội, tu ở chùa, nơi đâu cũng được.
21/04/2020(Xem: 8948)
Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục: 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta. 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại. 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thú và tài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.
24/08/2019(Xem: 10931)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
14/04/2019(Xem: 9784)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
20/09/2018(Xem: 5509)
Trung Bộ Kinh Nikaya (Majjhima Nikaya) có bốn bài kinh: 1) Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta), 2) Ananda và kinh Nhất Dạ Hiền (Anandabhaddekaratta Sutta); 3) Đại-Ca Chiên-Diên và kinh Nhất Dạ Hiền (Mahakaccanabhaddekaratta Sutta); 4) Lomasakangiya và kinh Nhất Dạ Hiền (Lomasakangiyabhaddekaratta Sutta). Cả bốn bài kinh này đều xoáy trọng tâm vào một bài kệ do Đức Phật tổng thuyết và biệt thuyết nhằm khuyến tấn các đệ tử của Ngài hãy nỗ lực tu tập để phát huy tuệ quán nhận ra "cái đang là" của các pháp hiện tại và an trú trong bây giờ và ở đây.
28/04/2018(Xem: 9309)
Sự hiện hữu của nhân sinh bao giờ cũng mang theo những ước mong về một đời sống tốt đẹp. Nhưng có lẽ sự tốt đẹp cho cả cuộc đời này là khát khao lớn nhất và có giá trị cao cả nhất cho những ai luôn nuôi dưỡng những tâm nguyện của tình thương bao la cho cả vũ trụ này. Có những mơ ước về một đời sống lí tưởng cho riêng mình, nhưng cũng có nhữngước mong xây dựng cho cả cuộc đời này thành một cảnh giới thật sự chỉ có mặt của niềm hạnh phúc. Những tâm tư như thế được thể hiện từ rấtxưa ở Trung Quốc với lí tưởng “thế giới đại đồng” của Nho Giáo,
12/11/2017(Xem: 23739)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
02/04/2017(Xem: 9442)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
28/04/2016(Xem: 20837)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
07/01/2015(Xem: 10044)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]