Phiên tả lại buổi thuyết giảng
Tịnh Độ Cực Lạc và Tịnh Độ Hiện Tại
do Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng
thuyết giảng ngày 8/8/ 2024
MC Huệ Sơn: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Thượng Tọa Giảng Sư (TT GS),
Hôm nay ngày 8/8/2024, giờ này Châu Âu là 20 giờ, tại đạo tràng tu học thứ Năm hàng tuần của Ban Truyền Bá, chúng con kính đảnh lễ Thượng Tọa (TT) và kính TT hướng dẫn niệm Phật cầu gia bị để cho buổi thuyết pháp hôm nay được nhiều lợi lạc. A Di Đà Phật.
TT GS Thích Nguyên Tạng: A Di Đà Phật, cảm ơn MC Huệ Sơn, chào quý vị Phật tử, mời đại chúng chắp tay niệm Phật cầu gia bị.
MC: Nam Mô A Di Đà Phật, kính thưa đại chúng, trước tiên xin được giới thiệu sơ về TT Giảng Sư:
TT GS đạo hiệu Thích Nguyên Tạng, hiện nay Thượng Tọa là Tổng Thư Ký của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi -Tân Tây Lan, vào đầu tháng 7 năm 2014, Thượng Tọa được tấn phong làm Trụ Trì tu viện Quảng Đức. Với những đóng góp thiết thực cho tôn giáo, văn hóa giáo dục, từ thiện v.v... Thầy được chính phủ liên bang Úc Đại Lợi trao tặng huy chương Thiên Niên Kỷ (Centenary Medal), nhân dịp kỷ niệm 100 năm (1901-2001) của chính quyền liên bang quốc gia này. Chúng con thành tâm cung kính giới thiệu Thượng Tọa.
Hôm nay đạo tràng của chúng con có được phước báu lớn đã được Thầy quang lâm đạo tràng hướng dẫn tu học cho chúng con lần thứ năm với đề tài pháp đàm Tịnh Độ Cực Lạc và Tịnh Độ Hiện Tại.
Kính bạch Thầy, để bắt đầu cho buổi pháp đàm hôm nay, chúng con muốn hiểu rõ về Tịnh Độ nói chung, sau đó mới đào sâu hơn về tịnh Độ Cực Lạc và Tịnh Độ Hiện Tại. Kính xin Thầy định nghĩa cho chúng con được rõ Tịnh Độ là gì? Tịnh Độ có phải là một cõi vật chất hay chỉ là biểu tượng cho một cảnh giới của tâm thức? Xin Thầy giải nghĩa cho chúng con.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch chư Tôn Đức, kính bạch TT Trưởng ban Truyền Bá của Âu Châu TT Thích Hạnh Tấn, thưa quý Phật Tử có mặt trong Đạo Tràng Pháp thoại tối hôm nay, thứ Năm ngày 8/8/2024 vào lúc 8 giờ tối Âu Châu; ở bên Úc Châu bây giờ là 4 giờ khuya thứ Sáu ngày 9/8/2024 nhằm 6/7 âm lịch Giáp Thìn, Phật Lịch 2568. Cảm ơn MC Huệ Sơn (ở Hòa Lan) phụ trách giờ pháp đàm tối nay, cám ơn anh đặt câu hỏi đầu tiên, Tịnh Độ là gì? Cõi đó là cõi vật chất hay tâm thức?
Thưa đại chúng, đây là một câu hỏi rất hay về pháp môn Tịnh Độ, và đây cũng là cái thắc mắc mà trong thời gian gần đây nhiều người hồ nghi về cõi giới Tịnh Độ.
Vậy Tịnh Độ là gì?
Tịnh có nghĩa là thanh tịnh, thanh khiết, an lành.
Độ là chỉ cho quốc độ, cõi giới hay cõi nước.
Tịnh Độ ở đây chỉ cho cõi giới an lành, trang nghiêm, thanh khiết, an lạc.
Cho nên khi viết điện thư phân ưu, mình cầu nguyện cho người vừa qua đời không rõ họ theo tôn giáo nào: “Được thác sanh về cõi giới an lành”, mình không ghi thác sanh về cõi giới Cực Lạc, nghe quá kinh điển và quá Phật Giáo, cho nên phân ưu chung chung là cầu nguyện cho Vong linh, Hương linh thác sanh về cõi giới an lành, cõi giới ấy là chỉ cho cõi giới Tịnh Độ vậy.
Câu hỏi này của anh Huệ Sơn bao hàm cả về Sự và Lý Tịnh Độ.
Về sự Tịnh Độ chỉ cho cõi giới Tịnh Độ bằng vật chất là cái mình nhìn thấy, mình tiếp xúc biết có một cõi giới thực sự, thứ hai là lý Tịnh Độ, chỉ cho cõi Tịnh Độ ngay tại tâm của chúng ta.
Chúng ta học giáo lý lâu nay đều biết rằng tất cả các pháp môn của Phật Giáo sự và lý phải viên dung, hành giải phải tương ưng, thì việc tu tập của chúng ta mới có kết quả. Nếu một pháp tu, một pháp hành mà chỉ nghiêng về sự không, là cực đoan, mà nghiêng về lý không, thì nó cũng khập khiễng. Ở đây pháp môn Tịnh Độ cũng vậy, sự lý đều dung thông.
Theo kinh Tiểu Bản A Di Đà, có đoạn: “ Nhĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá lợi phất, tùng thị Tây phương quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc. Kỳ độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp”.
Có nghĩa là “Bấy giờ đức Phật bảo Ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp”.
Thưa đại chúng, câu kinh này là nói rõ về Sự Tịnh Độ, tức là cung cấp cho chúng ta một địa chỉ rõ ràng về cõi giới vật chất Tịnh Độ cách đây hơn mười muôn ức cõi Phật.
Và cũng ngay trong câu kinh này, cũng nói về Lý Tịnh Độ, Tịnh Độ ngay tại tâm của mình, nếu hành giả vượt qua được mười kiết sử trọn vẹn:
1/Thân kiến
2/ Hoài nghi
3/ Giới cấm thủ
4/Tham (cõi dục)
5/ Sân hận
6/ Tham đắm vào cõi sắc
7/Tham đắm vào cõi vô sắc
8/Kiêu Mạn
9/Trạo cử vi tế
10/Vô minh (si vi tế)
Sẽ lập tức đặt chân cõi giới Tịnh Độ, không có tham, sân, si, mạn, nghi… ngay đó tâm mình thong dong tự tại, an lạc, thảnh thơi, đó là Tịnh Độ rồi, còn tìm ở đâu xa nữa. Điều này Phật đã dạy trong Kinh Duy Ma Cật rằng: “Bồ Tát nhược đắc Tịnh Độ, đương tịnh kỳ tâm, tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”, có nghĩa là: “Bồ Tát muốn lập cõi Tịnh Độ nên thanh tịnh tâm này, khi tâm thanh tịnh thì được cõi nước thanh tịnh”.
Tóm lại Tịnh Độ nói về sự là Tịnh Độ vật chất, nói về lý là Tịnh Độ ngay trong tâm của chúng ta .
MC Huệ Sơn: Câu thứ nhất chúng con đã hiểu về Tịnh Độ, câu hỏi tiếp theo: Theo như sự hiểu biết nông cạn của con thì những tôn giáo khác hình thành do một đấng Thần linh, hay một Giáo chủ nào đó tạo ra, và có thể ban phước, hoặc là giáng họa bất cứ những gì mà Giáo chủ này muốn. Bạch Thầy, với cảnh giới Tịnh Độ Cực Lạc chúng con hiểu là nơi Đức Phật A Di Đà làm Giáo chủ, nếu nói như vậy thì cõi A Di Đà là do Đức Phật A Di Đà tạo ra giống như thuyết tạo hóa của các tôn giáo khác, nhưng nếu không do Đức Phật A Di Đà tạo ra thì cõi Tịnh Độ này được thiết lập như thế nào? Xin Thầy giải thích cho chúng con được hiểu rõ.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Cõi giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà được thiết lập bằng bản nguyện của Ngài, ở đây mình không nói là mình theo thuyết tạo hóa của những tôn giáo khác, mà theo lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì cõi giới Tây Phương Cực Lạc được thiết lập bởi 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà, đó là điều chúng ta xác quyết là như vậy. Căn cứ trên 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà mà có cõi giới Tây Phương Cực Lạc.
Vừa rồi, Thầy có nói gần đây nhiều vị Giảng sư Phật giáo cũng theo trào lưu thế gian, bác bỏ không có cảnh giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, Thầy cho điều này rất là tai hại. Bản thân Thầy từ nhỏ tụng Kinh A Di Đà mỗi ngày, niềm tin này đã ăn sâu vào tim óc của mình. Tất cả các tu sĩ theo truyền thống Bắc Tông, khi vào chùa hành điệu, Sư phụ chỉ dạy thọ trì và thuộc lòng hai thời công phu: buổi sáng tụng Lăng Nghiêm Thập chú, buổi chiều tụng Kinh Di Đà, Kinh Hồng Danh và Mông Sơn Thí Thực, đó là hai thời công phu căn bản bắt buộc phải thuộc lòng.
Hồi xưa bên quê nhà, Thầy tụng kinh Di Đà bằng phiên bản Hán Việt, ví dụ: “Xá Lợi Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc. Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc”.
Có nghĩa là: “Vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. Cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc”.
Sau này sang Úc Thầy phát hiện ra bản dịch của Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch ra nghĩa Việt cho nên tại tu viện Quảng Đức này Thầy cho in kinh A Di Đà tụng bằng nghĩa Việt mỗi Chủ Nhật.
Trong bản kinh này Đức Phật giới thiệu cảnh giới Tây Phương Cực Lạc rất là rõ ràng. Nếu các Giảng sư ở bên truyền thống Nguyên thủy Theravada mà nói các Giảng sư bên Đại Thừa Bắc Tông, thì không biết các Ngài căn cứ nơi đâu mà các Ngài bác bỏ là không có cảnh giới Tây Phương Cực Lạc. Thầy cho đây là cái điều khập khiễng, mình cô phụ tấm lòng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Quý Phật tử có thể tham khảo thêm bản kinh A Di Đà Hán Tạng tương đương với:
Kinh Đại Thiện Kiến Vương thuộc Trường Bộ Kinh (số 17 thuộc Trường Bộ Kinh, do HT Thích Minh Châu dịch)
https://quangduc.com/a10128/17-kinh-dai-thien-kien-vuong
Kinh Đại Thiện Kiến Vương (số 68 thuộc Trung A Hàm, do HT Thích Tuệ Sỹ dịch)
https://quangduc.com/p1238a48342/68-kinh-dai-thien-kien-vuong
Chúng ta tìm hiểu sơ về một chút vũ trụ quan, hiện bây giờ hành tinh của chúng ta đang sống ở đây là Trái Đất, Mặt Trời, Mặt Trăng, xung quanh có Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, Sao Hải Vương... và nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 20 là Stephen Hawking còn phát hiện ra Lỗ đen (black hole) trong vũ trụ vào năm 1974. Cho đến nay, Lỗ đen này vẫn là một điều bí ẩn vô hạn, chưa có sự khám phá mới nào của khoa học thời hiện đại, chưa ai biết có gì bên trong hố đen ấy.
Thưa đại chúng, hành tinh nơi chúng ta đang sống ở đây chỉ là một phần vật chất rất nhỏ ở trong vũ trụ này. Đường kính của vũ trụ này có trên 156 tỷ năm ánh sáng, vì nó quá khổng lồ, chỉ tính bằng ánh sáng chứ không thể tính bằng Ký lô mét (Km); đại khái họ đo tốc độ của ánh sáng bằng Km là 300.000 km trên 1 giây. Một năm ánh sáng có khoảng chín ngàn tỷ Km. Các vị có thể tưởng tượng ra xem, vũ trụ có 156 tỉ năm ánh sáng thì nó to lớn bao nhiêu?
Gần đây, vào năm 2004, Cơ quan hàng không và vũ trụ Hoa Kỳ (National Aeronautics anh Space Administration) viết tắt là Nasa ở tại Texas, đã phát hiện ra hành tinh mới, đó là hành tinh 55 Cancri e; hành tinh này cách trái đất chúng ta khoảng 40 năm ánh sáng (một năm ánh sáng xấp xỉ bằng 9,5 ngàn tỷ km), ở trên hành tinh này chỉ chứa toàn kim cương và giá trị kim cương theo công ty khai thác tài nguyên vũ trụ Planetary Resources thì được khoảng 26.000 tỉ đô la Mỹ.
Đến năm 2011, Nasa lại tiếp tục phát hiện ra một hành tinh khác có tên 2011 UW-158 chứa khoảng 100 triệu tấn bạch kim, tức là vàng trắng. Loại này ở trong thế giới Ta Bà của chúng ta rất là quý hiếm.
Điều này cho thấy, nền khoa học thời đại chim sắt đã chứng minh thêm lời dạy của Đức Phật trong Hoa Nghiêm kinh rằng, cõi giới Ta Bà hay cõi giới Tây Phương Cực Lạc chỉ là cõi giới nhỏ trong tam thiên đại thiên thế giới, và trong cõi Cực Lạc Đức Phật A Di Đà có bảy thứ báu, tức là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu. Tất cả những thứ báu này tạo nên cõi giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Và ngày hôm nay khoa học thời hiện đại từng bước đã khám phá ra những hành tinh này, cũng chứa nhiều của báu như kim cương, bạch kim như trong kinh đã mô tả cách đây 26 thế kỷ.
Hiện nay, Cơ quan Nasa của Hoa Kỳ kết hợp cùng các quốc gia như Anh Quốc, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc để bay vào vũ trụ tiếp tục hành trình khám phá. Trước mắt, họ đang tìm cách đưa những con tàu vũ trụ vào gần hơn với mặt trời. Vào năm 2021, Nasa đã đưa con tàu khám phá những tài nguyên trong mặt trời. Họ phóng phi thuyền vào mặt trời từ năm 2018, nhưng cho đến ngày 18/4/2024 con tàu vũ trụ này mới xâm nhập được vào trong mặt trời, nói là vậy nhưng cách tâm điểm mặt trời đến 12 triệu cây số. Các vị tưởng tượng khoảng cách đó nó xa như thế nào. Bởi vì khi con tàu không gian bay vào vành đai của mặt trời, nhiệt độ của mặt trời rất nóng lên tới 1 triệu độ, không có thứ gì có thể tồn tại được. Con tàu Nasa này phải gắn một tấm chắn cách nhiệt để bảo vệ con tàu không gian này, nó bay tới bay lui ba lần để thu lấy dữ liệu mà không bị thiêu cháy.
Đầu năm 2023 vừa rồi, Ấn Độ đã đưa thành công con tàu thám hiểm vào bên trong mặt trời với thời gian bay là 125 ngày, tức là trung bình nó bay mỗi ngày 1 triệu cây số. Từ trái đất lên mặt trời khoảng 130 triệu cây số.
Thầy nói một chút về sự khám phá vũ trụ của nền khoa học không gian thời hiện đại này, bây giờ họ vẫn đang tiếp tục khám phá và tin vui nhất cho thế giới loài người là họ đã tìm ra hai hành tinh kim cương và bạch kim.
Vậy thì tại sao mình là đệ tử Phật ngồi đây để phủ bác, chối bỏ cõi giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà?
Tóm lại, Thầy cho rằng có cõi giới Tây Phương Cực lạc và cõi này được thiết lập bằng 48 đại nguyện của Đức Phật A Di Đà.
MC Huệ Sơn: Kính tri ân Thầy, do đại nguyện mà thiết lập được thế giới Cực Lạc, vừa mới nghe Thầy kể về vũ trụ không gian mà có kim cương, mã não, chắc là trên đó tha hồ mà xử dụng, mà trên đó con nghĩ cõi Tịnh Độ A Di Đà có tên là Cực Lạc thì không biết mình vãng sanh qua nơi đó thì các thiền giả phiền não dứt sạch là do có đầy đủ hết rồi hay bởi vì mình không có tham, sân, si nữa, Thầy có thể giải nghĩa cho con thêm không? Vì sao có tên là Cực Lạc?
TT GS Thích Nguyên Tạng:
"Cực Lạc, cực khổ song song
Hai đàng đều cực biết dong đường nào?"
Ông bà Việt Nam mình hay nói câu đó, cực lạc đối nghĩa với cực khổ. Cực Lạc là một thứ hạnh phúc rốt ráo, một niềm vui rốt ráo mà không có niềm vui nào so sánh được, cho nên có tên là Cực Lạc.
Cực Lạc được Đức Phật giải thích trong Kinh A Di Đà rằng là nơi đó không bị tất cả những điều khổ nó hành hạ và chỉ hưởng những điều vui thôi. Những người ở trong thế giới Tây Phương Cực Lạc 24/7 không có một chút phiền não nhiễm ô nào xâm chiếm. Ở đây MC Huệ Sơn hỏi rằng có phải do vãng sanh về nơi đó thì các phiền não bị dứt sạch không?
Xin thưa, ngay trong câu hỏi đã có câu trả lời rồi, một khi đã vãng sanh về cõi giới Cực Lạc thì phiền não phải dứt sạch, nghiệp chướng phải tận trừ. Không tận trừ nghiệp chướng, không hết phiền não thì không có cơ hội nào để vãng sanhTây Phương Cực Lạc, cho nên ở trong bộ Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu mà quý cô, chú Tiểu mới bước vào chùa, được Sư phụ dạy câu kệ đánh răng, súc miệng mỗi sáng sớm như sau:
Sấu khẩu liên tâm tịnh
Vẫn thủy bách hoa hương
Tam nghiệp hằng thanh tịnh
Đồng Phật vãng Tây phương.
Án hám án hãn sa ha (3 lần).
Có nghĩa là:
Súc miệng lòng sạch luôn
Miệng thơm mùi trăm hoa
Ba nghiệp thường trong sạch
Cùng Phật về Tây phương.
Sư Ông Làng Mai dịch bài này:
"Súc miệng lòng cũng sạch
Vũ trụ ngát hoa hương
Ba nghiệp thường thanh tịnh
Cùng Bụt chơi Tây phương"
Hai câu cuối trong bài kệ rất quan trọng, nhắc nhở hành giả muốn cùng Phật về Tây Phương thì điều trước tiên phải thanh lọc sạch sẽ ba nghiệp. Ba nghiệp ở đây là chỉ cho thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Ba nghiệp này thanh tịnh thì cùng Phật về Tây Phương.
MC Huệ Sơn: Con có một thắc mắc là nếu về Tây Phương Cực Lạc cái đó chưa gọi là rốt ráo, tại vì chúng ta tu hành để giải thoát, để thành Phật, thì ở trong kinh nói cõi Ta Bà có nhiều phiền não rất là phù hợp để mà mình tu hành giải thoát, được thành Phật nhưng mà ngược lại như Thầy đã nói là về Cực Lạc thì không sợ khổ, chỉ có an vui, sinh qua đó là phù hợp nhất vì ở đó không có tham, sân, si, thì nơi đó là nơi rất dễ dàng, và nếu như mình sinh sống dễ dàng không có khổ nạn như vậy mình có thể giải đãi khó tu để thành Phật thì như vậy có phải là bị hơi mâu thuẫn với nhau không Thầy? Xin Thầy giảng điều này ạ.
TT GS Thích Nguyên Tạng: theo cái nhìn của phàm phu Phật tử chúng mình thì mình thấy điều này có chút mâu thuẫn, nhưng nếu mình có ánh nhìn theo người đệ tử Phật có tu và có học, thì không có gì mâu thuẫn cả. Một hành giả được cho là vãng sanh về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, theo sự nhận xét của Thầy thì vị này ít nhất cũng đã đã đắc quả Dự lưu rồi.
Đây là điều quý Phật tử phải nghe cho kỹ để không thấy mâu thuẫn và câu trả lời của Thầy là người vãng sanh về Thế Giới Tây Phương Cực Lạc là phải đạt tới quả Dự lưu.
Dự lưu, tiếng Phạn gọi là Sotapanta (Tu Đà Hoàn) chỉ cho một người mới nhập vào dòng Thánh, từ đó chỉ có đi lên cho đến ngày giác ngộ giải thoát hoàn toàn chứ không còn rơi rớt xuống nữa. Bậc dự lưu là người đã giải thoát khỏi ba kiết sử đầu tiên là thân kiến, giới cấm thủ và hoài nghi. Bậc dự lưu sẽ tái sinh bảy lần nữa vào các cõi trời Sắc Giới Sơ Thiền (Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm), sau đó mới đạt đến giải thoát.
Nếu hành giả tiếp tục tận trừ tham dục và sân hận thì chứng quả thứ 2 là Tư Đà Hàm (Sakadãgãmi) chỉ còn tái sinh một lần nữa (Nhất Lai). Trường Bộ Kinh có dạy “Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử và làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhứt lai, còn phải sanh lại trong đời này một lần nữa trước khi diệt hẳn khổ đau.”. Các vị đắc nhị quả Tư Đà Hàm khi tịch sẽ thác sanh một lần nữa về cõi Sắc Giới Nhị Thiền (Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Quang Âm )
Tiếp đó, hành giả tu tập và đoạn trừ hoàn toàn năm hạ phần kiết sử: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục và sân) chứng đắc Tam Quả A Na Hàm (Bất Lai), khi viên tịch thác sanh về cõi trời Sắc Giới Tam Thiền Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh). Đức Phật dạy trong Kinh Trường Bộ rằng: “Vị Tỷ-kheo đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử, thành vị hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải trở lại thế giới này nữa.”.
Cuối cùng, hành giả tu tập và đoạn trừ hoàn toàn năm kiết sử cuối cùng, đó là: hữu ái, vô hữu ái, kiêu mạn, trạo hối và vô minh, vị này sẽ đắc quả thứ tư, đó là A-la-hán (Arahant/Vô Sanh), là bậc tuệ viên mãn, giải thoát hoàn toàn mọi khổ đau sinh tử luân hồi, vị ấy được xem là: “Sanh đã tận, phạm hạnh dĩ thành, bất thọ hậu hữu", tức là "Sanh đã tận, lậu đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa", vị này đã giải thoát khỏi tam giới: Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới, không còn luân hồi tái sanh nữa.
Như vậy chúng ta thấy từ một vị đắc quả đầu tiên cho đến quả vị thứ tư, vẫn tiếp tục tu tập hành trì chứ không có chuyện mà lên cõi giới Cực Lạc rồi thì ngồi đó để hưởng thụ, ăn uống, vui chơi mà không chịu tu như mọi người lầm tưởng.
Khi đắc quả Dự lưu rồi thì vị này đã tận trừ ba kiết sử tức là thân kiến, giới cấm thủ, và hoài nghi mà trong đó Đức Phật dạy rằng người mà chứng quả Dự Lưu thì còn trở lại thế giới này bảy kiếp hay bảy đời sống nữa, hay là bảy vòng sanh diệt nữa. Đó là trên văn bản, nhưng trong thực tế đời sống, chúng ta biết có người chứng quả Dự lưu xong thì chỉ bảy giây sau thì chứng quả thứ hai, bảy giây sau chứng quả thứ ba, bảy giây sau chứng quả thứ tư luôn, đó là trường hợp của Ngài Thánh Tăng Đệ Nhất Tài Lộc Sivali. Ngài Sivali chứng quả Dự Lưu cho tới A La Hán chỉ trong một khoảnh khắc. Khi Ngài Tôn Giả Mục Kiền Liên đặt dao cạo lên đầu cạo tóc cho chú bé Sivali xuất gia, Ngài chưa cạo xong thì Ngài Sivali đã đắc quả A La Hán, không cần phải tái sanh đến 7 lần.
Như vậy tùy theo thiện căn, phước đức và nhân duyên của mỗi người mà có thể chứng quả Dự Lưu Thất Lai, Nhất Lai, Bất Lai, rồi quả Vô Sanh.
Quả Dự Lưu còn gọi là Thất Lai, tức là người đắc quả Dự Lưu rồi còn sanh trở lại bảy lần nữa, nhưng vị ấy không còn rơi xuống tam đồ ác đạo, mà sanh vào cõi trời sắc giới, từ đó tu tập để tiếp tục đi lên. Bởi vì sao? – Bởi vì vị này có lòng tin kiên cố nơi Phật, nơi Pháp, nơi Tăng và nơi Thánh giới, dù ở bất cứ nơi nào niềm tin của vị thánh Dự Lưu không bao giờ mất, không bao giờ thối thất. Đó là điều quyết định để bản thân hành giả không còn lơ là, dễ duôi ở trong đời sống vật chất mà nhất tâm chỉ hướng một đường tu tập để đạt đến giải thoát.
Giải thích như trên để giải phóng đi những thắc mắc của MC Huệ Sơn rằng, một người đã vãng sanh về cõi giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà rồi, hành giả vẫn tiếp tục tu tập để đi lên, chứ không có gì để mà hưởng thụ để rồi quên cái mục đích ban đầu của mình. Ở đây Thầy nhắc lại, một người đã vãng sanh về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc mà chư Tổ dạy là "đới nghiệp vãng sanh", tức là người mang nghiệp cũ vào cõi giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Nghiệp cũ ở đây chỉ cho những cái phiền não vi tế là trần sa hoặc, là vô minh hoặc. Còn đối chiếu thứ lớp của Tứ Quả Thanh Văn trong kinh điển Nikaya thì một vị chứng quả Dự Lưu, chỉ mới đoạn trừ ba kiết sử trong mười kiết sử, rồi chứng quả thứ hai là Tư Đà Hàm còn gọi là Nhất Lai thì vị này đoạn trừ ba kiết sử đầu, tức là thân kiến, giới cấm thủ và hoài nghi và làm suy yếu 2 kiết sử dục tham và sân, rồi tiếp tục tu tập để mà chứng quả thứ ba A Na Hàm là đoạn trừ sạch sẽ dục tham và sân, cũng như là thân kiến, giới cấm thủ và hoài nghi (5 hạ phần kiết sử). Quả thứ tư, vị này đoạn trừ sạch sẽ năm thượng phần kiết sử là: tham sắc, tham vô sắc, trạo cử, ngã mạn và vô minh. Tất cả những phiền não kiết sử này đoạn trừ theo thời gian chứ không phải đoạn trừ một lần. Cho nên các nhà sớ giải và các vị Tổ Sư Tịnh Độ Tông lý giải phần “đới nghiệp vãng sanh” là căn cứ trên tầng bậc của bốn quả Thanh Văn này, chúng ta nhìn thấy như vậy để biết rằng không có gì mâu thuẫn trong việc vãng sanh vào cảnh Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
MC Huệ Sơn: Chúng con kính tri ân Thầy, bởi vì trong đạo tràng của chúng ta nói đúng ra thì cũng có rất nhiều người khác nhau, bởi vậy làm MC con phải cố gắng đặt những câu hỏi để làm thế nào lấy mức trung bình hoặc thấp xuống, để cho một số quý đạo hữu cũng có thể theo dõi kịp được, và cũng nhân tiện đây thì tất cả những đạo hữu trong đạo tràng này có ai có những câu hỏi hoặc thắc mắc thì chúng ta có thể đặt câu hỏi hoặc những câu chat, thì Huệ Sơn có thể đưa cho Giảng sư để Thầy giải thích, trình bày cho chúng ta hiểu rõ hơn.
Bây giờ để con tiếp tục nói về Tịnh Độ Hiện Tại. Tịnh Độ Cực Lạc thì mình dựa theo Tín, Nguyện, Hạnh mà tu hành, mình phải tuyệt đối tin tưởng. Mà đã là tuyệt đối tin tưởng rồi thì hãy phát nguyện vãng sanh. Khi đã phát nguyện vãng sanh rồi thì phải nỗ lực thực hành, đó là con hiểu như vậy. Nhưng còn về Tịnh Độ Hiện Tại thì sao? Xin Thầy giải nghĩa cho con.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Cảm ơn MC Huệ Sơn. Tịnh Độ hiện Tại là chỉ cho cõi giới Tịnh Độ ngay tại tâm của mình chứ không phải cõi Tịnh Độ cách đây mười muôn ức cõi.
Khi chúng ta học kinh điển Đại thừa, hành giả phải hiểu xuống một lớp nghĩa thứ hai để mà thấy rõ được lời dạy uyên áo của Đức Thế Tôn.
Đức Phật nói rằng: Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật có thế giới Cực Lạc mà Đức Phật A Di Đà hiện nay đang nói pháp.
Ở đây các vị để ý con số 10. Muốn đến cõi giới Tây Phương Cực Lạc, cõi Di Đà là phải vượt qua mười muôn ức cõi, thì muốn tới cõi giới Tịnh Độ Hiện Tại thì hành giả phải vượt qua mười kiết sử (như giải thích ở trên), hoặc phải vượt qua 10 căn bản phiền não là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến. Được như vậy là mình đạt đến chỗ Tịnh Độ Hiện Tại đó, chứ không phải nói Tịnh Độ Hiện Tại ở ngay trong tâm của mình là nói suông, trong tâm của mình đầy dãy những phiền não, nhiễm ô thì làm sao mà có Tịnh Độ Hiện Tại, làm sao mà có Tịnh Độ tại tâm được?
Muốn có Tịnh Độ tại tâm hay là Tịnh Độ hiện tiền chúng ta phải tận trừ mười kiết sử mà Thầy vừa nói ở trong phần Tứ quả Thanh Văn, tức là thân kiến, giới cấm thủ, hoài nghi, dục, tham và sân, tham sắc, tham vô sắc, trạo cử, kiêu mạn và vô minh.
Kiết sử có nghĩa là trói buộc, giam hãm mình thì làm sao mình thấy được cõi giới Cực Lạc, cho nên vượt qua mười kiết sử đó, hay mười căn bản phiền não, chúng ta sẽ đặt chân vào cõi giới Tịnh Độ Hiện Tại.
Ngày xưa Thầy học với Hòa Thượng Từ Thông ở Trường Phật Học Vĩnh Nghiêm (niên khóa 1989-1992), cách đây cũng hơn ba mươi năm rồi. HT Từ Thông cùng tuổi với Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn ở Úc, sinh năm Mậu Thìn 1928, năm nay quý Ngài đã gần 98 tuổi rồi, quý Ngài sống một thế kỷ. HT Từ thông là một Giảng sư nổi tiếng của Viện Hóa Đạo ngày xưa. Sau năm 1975, HT xin mở trường nhưng không được, mãi cho đến năm 1989 mới mở được trường Cơ Bản Phật Học đầu tiên ở tại Việt Nam. Ngài vừa làm Hiệu trưởng, vừa làm Giáo thọ đứng lớp dạy luôn. Thầy học HT các bộ kinh: Kinh Di Đà, Kinh Pháp Hoa, Kinh Bát Nhã, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Niết Bàn. HT vẽ rất đẹp, buổi giảng của HT rất sinh động, đại chúng rất thích thú vì khi HT giảng bài, miệng thì nói, tay thì vẽ hình minh họa. Hòa Thượng có một trí nhớ siêu việt. Thầy nhớ HT kể lúcHT đi giảng cho Tăng Ni sinh Trường Cao Cấp Phật Học ở Chùa Quán Sứ, Hà Nội, chùa này là linh hồn của Phật Giáo miền Bắc, là trụ sở chính của miền Bắc từ trước năm 1945. Ngài lên Chánh điện lễ Phật và đọc được 2 câu đối ở đây. Hai câu đối rất là quan trọng:
Phật hiệu Di Đà pháp giới tàng thân tùy xứ hiện
Quốc danh Cực Lạc tịch quang, chơn cảnh cá trung huyền
Dịch nghĩa Việt:
Phật hiệu Di Đà, thân ẩn pháp giới, tùy chỗ tịch tịnh, liền ứng hiện
Nước tên Cực Lạc, cõi chơn tịch quang, nơi tâm nhiệm mầu chóng phô bày
Câu đối chùa Quán Sứ biểu trưng cho Tịnh Độ hiện tại, và không biết câu đối này do Ngài Tổ nào viết, mà thời điểm cách đây ba mươi mấy năm HT Từ Thông đã đọc câu đối này, Ngài rất mừng bởi vì tư tưởng của HT Từ Thông là tư tưởng Tịnh Độ Hiện Tại chứ không phải là Tịnh Độ Cực Lạc.
Phật hiệu Di Đà pháp giới tàng thân tùy xứ hiện: có nghĩa là Đức Phật hiệu A Di Đà Ngài ẩn tàng trong mười pháp giới và chỉ hiện ra tùy xứ, xứ nào thanh tịnh thì Ngài hiện ra.
Câu đối này có thể lấy ra từ câu danh hiệu đảnh lễ Phật Di Đà là: "Chí tâm đảnh lễ pháp giới tàng thân A Di Đà Phật", pháp giới này bao la, mênh mông ẩn tàng trong mười pháp giới: đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, phương trên và phương dưới, chỗ nào Ngài cũng có. Bởi vì Đức Phật A Di Đà là Amitabha, có nghĩa là Vô lượng quang, là ánh sáng vô lượng chiếu khắp mười phương và Amitayus là Vô lượng thọ, nghĩa là thọ mạng vô lượng.
Vô lượng quang là ánh sáng vô lượng là chỉ cho trí tuệ chơn tâm của chúng ta hằng sáng và thọ mạng là dài vô lượng, ý nói thân ngũ uẩn của chúng ta thì có sanh, có diệt nhưng tánh biết của chúng ta xưa nay chưa từng mất, là vô lượng thọ, đây là ý nghĩa của tự tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ.
Câu thứ hai là Quốc dân cực lạc, tịch quang chơn cảnh cá trung huyền có nghĩa là cõi giới của Ngài tên là Quốc Danh Cực Lạc chỉ hiện ra nơi nào có ánh sáng tịch tĩnh gọi là tịch quang chơn cảnh. Cá trung huyền, nghĩa là cảnh giới huyền diệu ở trong tâm mỗi chúng ta.
Câu trên nói về tự tánh Di Đà, câu thứ hai nói về Duy Tâm Tịnh Độ. Nếu tâm của chúng ta mà thanh tịnh thì ngay nơi đó Đức Phật Di Đà sẽ hiện ra.
"Thiên giang hữu thủy Thiên giang Nguyệt
Vạn lý vô vân vạn lý Thiên."
Dịch nghĩa:
"Ngàn sông ngàn nước ngàn trăng hiện
Muôn dặm không mây muôn dặm trời
Ý nghĩa diễn bày của câu đối trên là: ngàn con sông có nước trong mát, không gợn sóng thì ngàn ánh trăng tròn sẽ in bóng vào. Muôn dặm đường xa không bị áng mây đen che phủ, sẽ có muôn ánh mặt trời chiếu soi.
Cũng như vậy, nếu tâm hành giả không bị nước đục kiết sử và mây đen phiền não che khuất, Phật tánh sẽ hiển lộ.
Khi chúng ta để một chén nước, hay thậm chí một ngàn hay một tỉ chén nước, khi chén nước tĩnh lặng, không gợn sóng thì ánh trăng sẽ hiện rõ vào những chén nước đó. Chén nước trong này là chỉ cho tâm của chúng ta và tự tánh Di Đà là cái tánh biết của mỗi chúng sanh; cái tánh biết này hằng thanh tịnh từ ngàn xưa cho đến nay, không bao giờ biến diệt.
Cho nên ở trong Kinh Duy Ma phẩm đầu tiên có nói: "Dục cầu Tịnh Độ tiên tịnh kỳ tâm, tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh". Bởi vì lúc đó có ba mươi hai ngàn vị Bồ Tát tới nghe Đức Phật giảng và Đức Phật tán dương công đức của các vị Bồ Tát. Những cõi giới mà các vị cư trú đều rất đẹp, rất thanh tịnh và trang nghiêm giống như cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà vậy. Lúc đó Ngài Xá Lợi Phất mới khởi lên một ý tưởng (Ngài đại diện cho hàng phàm phu của chúng ta). Ngài suy nghĩ rằng, từ nãy giờ mình nghe Đức Thế Tôn kể những cảnh giới của các vị Bồ Tát sao mà trang nghiêm, thanh tịnh, đẹp đẽ quá, còn cõi giới Ta Bà, cõi giới của Đức Phật Thích Ca, Sư Phụ của mình đây sao dơ uế, gò nộng thấp cao, không thanh tịnh, nhìn thấy mà ngao ngán, như vậy có thể nào từ ngàn xưa Sư Phụ Cồ Đàm của chúng ta Ngài không gieo nhân tốt hay sao mà để bây giờ Ngài phải giáo hóa ở trong một cõi giới khổ đau như thế này?
Tôn Giả Xá Lợi Phất đang nghĩ như vậy, lúc đó Đức Thế Tôn ngồi ở trên đọc được tư tưởng này mới nói: Đệ tử Xá Lợi Phất ơi! Con đừng nghĩ như vậy mà tội chết, mặt trời, mặt trăng kia có ánh sáng trực chiếu, nhưng tại sao người bị mù bẩm sinh người ta không thấy? Vậy thì đó là lỗi của mặt trời, mặt trăng hay là lỗi của người mù? Ngài Xá Lợi Phất đáp: Bạch Đức Thế Tôn, đúng là lỗi của người mù, họ không nhìn thấy, chứ mặt trời, mặt trăng ánh sáng vẫn hằng chiếu soi.
Lúc đó Đức Thế Tôn mới giải thích rằng: cõi Tịnh Độ của chúng ta ở đây vẫn hằng sáng đẹp như là ngày nào, nhưng vì do cái tâm bất tịnh của chúng đệ tử cho nên không nhìn thấy đó thôi, nói xong Đức Thế Tôn nhấn tay xuống đất, Xúc Địa ấn, thì lập tức cảnh quang trước mắt của Ngài Xá Lợi Phất hiện ra một cõi Tịnh Độ lộng lẫy, huy hoàng được tạo bằng kim cương, pha lê, xa cừ, mã não, hổ phách, trân châu rực sáng, thanh mát. Ngài Xá Lợi Phất giật mình chắp tay sám hối Đức Thế Tôn bằng bài kệ:
Như-Lai diệu sắc thân
Thế-gian vô dữ đẳng
Vô-tỷ bất tư-nghị
Thị cố kim đảnh lễ
Như-Lai sắc vô tận
Trí tuệ phục diệt nhiên
Nhứt thế pháp thường trụ
Thị cố ngã quy y
Đại trí đại nguyện lực
Phổ độ chư quần sanh
Linh xả nhiệt não thân
Sanh bỉ Thanh lương quốc
Ngã kim tịnh tam nghiệp
Quy y cập lễ tán
Nguyện cộng chư chúng sanh
Đồng sanh an lạc quốc.
Có nghĩa là:
Sắc Thân Như Lai đẹp
Trong đời không ai bằng
Không thể sanh, nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ.
Sắc thân Phật vô tận
Trí huệ Phật cũng thế
Tất cả pháp thường trú
Cho nên con về nương
Sức lớn, chí nguyện lớn
Khắp độ chúng quần sanh
Khiến bỏ thân nóng khổ
Sanh kia nước mát vui
Con nay sạch ba nghiệp
Qui y và lễ tán
Nguyện cùng các chúng sanh
Đồng sanh nước Cực Lạc.
Đức Thế Tôn dạy tiếp rằng: "Dục cầu Tịnh Độ thì tiên định kỳ tâm, tùy kỳ tịnh tức Phật độ tịnh". Nghĩa là muốn cầu về cõi giới Tịnh Độ thì trước hết phải thanh tịnh bản tâm của mình, hễ lòng mình thanh tịnh thì cõi Phật hiện tiền.
"Tây Phương ở tít tận chân trời,
Một niệm chí thành đã đến nơi,
Khi đi chẳng nhọc mang giày dép
Mỗi bước hoa sen nở đón mời"
MC Huệ Sơn: Thầy ngâm thơ hay quá! Bạch Thầy, bên tư tưởng của Tịnh Độ Hiện Tại có vãng sanh không Thầy? Nếu có thì vãng sanh như thế nào? Xin Thầy giải thích thêm cho chúng con rõ.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Tịnh Độ Hiện Tại vẫn có vãng sanh, Vãng sanh cách thế nào? Vãng sanh ngay tâm của chúng ta. Chữ vãng có nghĩa là đi qua, đã qua, đi qua một phút, đã qua một ngày; một phút hay một ngày tâm tĩnh lặng, thong dong tự tại, không phiền não, không bị khổ đau chi phối là ta đã vãng sanh rồi, chỉ đơn giản vậy thôi.
Vãng sanh ở đây theo trường phái của Tịnh Độ Hiện Tại nên hiểu rằng, vãng sanh là một cái từ khác của đốn ngộ, giải thoát, chứng quả. Nếu quý vị hiểu chữ vãng sanh qua lớp nghĩa như vậy thì chúng ta không có gì thắc mắc nữa. Ở trong bộ Thiền luận của Suzuki do học giả Trúc Thiên và Đức Trưởng Lão HT Thích Tuệ Sỹ dịch. Thiền sư Suzuki nói rằng: Vãng sanh ngay trong giờ phút hiện tại thì cũng giống như người tu Thiền mà đạt tới chỗ Tam muội (Samàdhi), tức là chứng Tam muội và vãng sanh là một, nghĩa là người bên kia tu Thiền mà đạt được chánh định tam muội thì phía bên Tịnh Độ phải đạt đến nhất tâm bất loạn, khi đạt được nhất tâm bất loạn thì vị này đã vãng sanh. Vãng sanh và chứng tam muội là một, chỉ cách dùng từ khác nhau mà thôi.
Khi một hành giả niệm Phật đạt được tới chỗ nhất tâm bất loạn thì vị này đã có mặt ở thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi. Cõi giới Tây Phương Cực Lạc ngay trong hiện tại, tức là một cõi giới lặng lẽ rõ biết hiện tiền, nhẹ nhàng, an lạc, không bị phiền não nhiễm ô tấn công, quấy nhiễu, người này an lạc, thong dong, tự tại trong hành xứ, không vô tướng, vô tánh, như chim giữa hư không tìm dấu chân không thấy, vị này đã giải thoát.
Tóm lại, ý nghĩa vãng sanh đồng nghĩa với đốn ngộ, chứng ngộ ngay giây phút hiện tại.
MC Huệ Sơn: Hiện giờ bên Âu Châu là 9 giờ đêm, như vậy chúng ta đã trải qua một tiếng rồi, những đạo hữu ở trong zoom, có ai có câu hỏi thì giơ tay, hoặc ghi trong chat để mời Ngài Giảng Sư giải thích. Giờ đây, con có một câu hỏi: xin Thầy có thể cho con biết, người tu theo Pháp môn Tịnh Độ, cầu về Cực Lạc là phương tiện hay cứu cánh? Nếu chỉ là một phương tiện thì bước theo là gì? Thầy giảng nghĩa cho chúng con ạ.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Về Tịnh Độ Cực Lạc Đức Phật A Di Đà là cứu cánh chứ không phải phương tiện, như Thầy vừa giải thích, người mà vãng sanh là người đã giác ngộ và giải thoát thì đó là cứu cánh chứ không phải là phương tiện nữa.
Vấn đề ở đây là trên bước đường tu tập, chúng ta áp dụng pháp môn Tịnh Độ này phải như thế nào? Mình xem đó là phương tiện, hay xem đó là cứu cánh. Về Tây Phương Cực Lạc là điểm đến cuối cùng của hành giả thì làm sao nói là phương tiện được. Nếu nói rằng tu Tịnh Độ là phương tiện thì coi chừng mình đang đi sai đường.
MC Huệ Sơn: Bạch Thầy, con nghĩ là còn phải tu hành là còn phương tiện. Bởi vì chỉ là một phương tiện để mình đi nó gần hơn đến khi thành Phật. Khi thành Phật mới gọi là cứu cánh, đó là ý nghĩ của con nên con mới đặt câu hỏi này.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Dạ vâng, tùy theo cách suy nghĩ của mỗi người mà nhìn nhận vấn đề. Về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc là cứu cánh, tức là từ đó mình đi lên thôi. Ở trong cõi giới Tây Phương Cực Lạc nói rằng có cửu phẩm liên hoa, tức là Hạ phẩm, Trung phẩm rồi Thượng phẩm.
Theo kinh Vô Lượng Thọ nói rằng một hành giả thác sanh về cõi giới Tây Phương Cực Lạc tùy theo trình độ tu tập của mình mà thác sanh về trong cõi giới Tây Phương Cực Lạc mình ở tầng nào. Tầng thứ nhất là hạ phẩm hạ sanh, vị này ở đây tới 12 đại kiếp mới thác sanh lên Trung phẩm rồi tới Thượng Phẩm. Một vị mà thác sanh về Thượng phẩm Thượng sanh thì hoa khai kiến Phật vô sanh, nghĩa là hoa sen nở ra liền và thấy được Phật A Di Đà, đạt tới chỗ cuối cùng.
Thầy nói thác sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc là cứu cánh bởi vì hành giả này không còn rơi xuống cõi khác nữa, từ đó mà đi lên cho đến ngày thành Phật.
Phật tử Diệu Đắc hỏi: Vì căn cơ chúng con còn thấp, xin Thầy nói về pháp môn tu nào để hướng về Tịnh Độ để giúp chúng con dễ dàng áp dụng theo.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Cảm ơn đệ tử Diệu Đắc hỏi câu này rất hay, tức là pháp hành. Pháp môn Tịnh Độ đã được Đức Phật dạy ở trong Kinh A Di Đà rất đơn giản là chấp trì danh hiệu, gìn giữ câu niệm Phật, đó là pháp hành xuyên suốt của người tu Tịnh Độ.
Niệm Phật có phước, có duyên
Tấn tài, tấn lợi bình yên cửa nhà
Niệm Phật trừ đặng tà ma
Yêu tinh quỷ quái lánh xa ngàn trùng
Niệm Phật năng khử độc trùng
Các loài ác thú hóa hung ra hiền
......
Niệm Phật như nước với trăng
Nước trong trăng tỏ nước nhăn trăng lờ
Niệm Phật có lắm huyền cơ
Miễn đừng đem dạ nghi ngờ là xong
Niệm Phật giữ một tấm lòng
Di Đà oai đức mênh mông biển trời
Đức Phật biến hóa khắp nơi
Thương người cứu vớt những người trầm luân.
Niệm Phật, chấp trì danh hiệu là pháp tu rốt ráo của hành giả pháp môn Tịnh Độ.
Thứ hai, là nên áp dụng pháp tu tịnh nghiệp tam phước theo Kinh Quán Vô Lượng, đó là:
1/ Phước thứ nhất: “Hiếu dưỡng Phụ mẫu. Phụng sự Sư trưởng. Từ tâm bất sát. Tu thập thiện nghiệp”
2/ Phước thứ hai: “Thọ trì Tam quy, Cụ túc chúng giới, không phạm oai nghi”
3/ Phước thứ ba: là nền tảng của Bồ Tát Đại Thừa. “Phát tâm Bồ Đề. Tin sâu nhân quả. Đọc tụng Đại thừa. Khuyến tấn hành giả”.
Phước thứ 3, Đức Thế Tôn nhấn mạnh về Bồ đề tâm, vì Bồ đề tâm là nhân của vãng sanh Tịnh Độ. Tịnh Độ lấy Bồ đề tâm làm nhân và lấy tín, hạnh nguyện làm duyên
Muốn có quả vãng sanh Cực Lạc thì phải có nhân, phải có duyên.
Có nhân không mà không có duyên thì không thành quả, ví dụ như nhân là hạt giống, muốn cho hạt giống nảy mầm để đơm hoa kết trái thì phải nhờ duyên, là đem hạt giống xuống đất, tưới nước, bón phân.
Nhân là Bồ đề tâm, Bồ đề tâm phải khởi phát, dùng tín, hạnh, nguyện làm duyên. Tín gồm có nội tín và ngoại tín. Nội tín là tin bản thân mình có Bồ đề tâm, có tánh biết, có tự tánh Di Đà. Ngoại tín là tin có Đức Phật A Di Đà cách đây mười muôn ức cõi, có cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, có tha phương tịnh Độ.
Nội tín và ngoại tín phải dung thông với nhau. Nội tín chỉ cho tự lực và ngoại tín chỉ cho tha lực.
Hiện giờ quý Phật tử tu theo pháp môn Tịnh Độ chỉ có ngoại tín, chứ không có nội tín.
Ngoại tín có nghĩa là chỉ chăm bẳm vào tha lực của Đức Phật A Di Đà, một đời tám mươi năm không có tu, tới khi mà hấp hối rồi mới thỉnh Thầy về niệm Phật, tiếp dẫn để cầu tha lực của Đức Phật A Di Đà phóng quang tiếp độ vãng sanh, thử hỏi có đi vãng sanh hay không?
Xin thưa mãi mãi là không, bởi vì, tha lực của Đức Phật A Di Đà cần phải có tự lực của chúng ta nữa, có tự lực của mỗi hành giả tự kích hoạch thì mới nối kết được với tha lực kia của Phật A Di Đà.
Ở đây Thầy hay giải thích cho quý Phật Tử Quảng Đức, khi mình ra phi trường đi lên máy bay, ở trên đường đi từ chỗ check in đến gate lên máy bay, họ có lắp đặt những chiếc thang cuốn, mình đứng đó mà đi để tiết kiệm thời gian và sức khỏe, đó là một dạng của tha lực. Những người tu theo trường phái tự lực thì không tin tha lực, không tin sự gia hộ của Đức Phật A Di Đà mà chỉ tự tin nơi bản thân mình chứ không tin Phật nào quang giáng đạo tràng để mà chứng minh gia hộ cho chúng ta, đây là trường phái cực đoan.
Có ai trên cuộc đời này mà không cần tha lực? Tha lực là nhờ người khác giúp đỡ cho mình, tự tin mình sống từ sáng tới tối không cần ai giúp đỡ không? Chúng ta ăn một miếng, ta uống một hớp, đều có sự giúp đỡ của người khác thì chuyện tu cũng vậy thôi, chắc chắn là có sự gia trì của Phật, mình ngủ một đêm, sáng thức dậy mình đi công phu phải cần có đồng hồ báo thức kia mà! Đồng hồ, chuông đồng hồ báo thức là một dạng tha lực sao mình phủ bác chuyện đó? Thầy nói một ví dụ đơn giản như vậy thôi, quý Phật tử đừng nói tôi không cần ai giúp. Xin thưa: Đức Phật trên cao kia từ bi gia hộ cho chính mình.
Tất nhiên, ngược lại, quý Phật tử cứ cầu tha lực không có tự lực của bản thân mình thì tha lực của Đức Phật cũng không chạm được tới mình. Bởi vậy, nên nội tín và ngoại tín rất là quan trọng, phải dung thông với nhau, và hạnh là chỉ cho các pháp tu hằng ngày của hành giả. Hạnh nuôi dưỡng nội tín và ngoại tín, đó là tu Lục độ vạn hạnh là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Hãy thực thi Lục độ vạn hạnh vì đó là thức ăn để nuôi dưỡng nội tín và ngoại tín, nuôi dưỡng Bồ đề tâm và Bồ đề nguyện. Quan trọng nhất là hành giả luôn gìn giữ Bồ đề tâm của mình, phát nguyện đạt đến chỗ rốt ráo trên bước đường tu, gìn giữ bản nguyện Bồ đề của mình để đi tới giác ngộ và giải thoát, ngày nào còn hơi thở thì ngày đó còn niệm A Di Đà, chấp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.
Lục tự Di Đà vô biệt niệm
Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương
Ở đây Thầy sống gần Ôn Huyền Tôn, Ngài rất là bực mình khi mà nghe chúng đệ tử chỉ niệm bốn chữ theo HT Tịnh Không. Không biết HT Tịnh Không phổ biến hay Tổ sư Ấn Quang. Thầy đọc những bản sớ giải Di Đà Sớ Sao, Ngài Ấn Quang dạy nếu trường hợp quý vị thấy khó khăn niệm 6 chữ có thể niệm 4 chữ. Nhưng ở đây Hòa Thượng Huyền Tôn dạy dứt khoát là không cho niệm bốn chữ, A Di Đà Phật, Ngài bắt buộc phải niệm đủ: Nam Mô A Di Đà Phật. Phải niệm đủ sáu chữ, bởi vì trong kinh chư Tổ dạy rằng:
Lục tự Di Đà vô biệt niệm
Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương.
Có nghĩa là:
Sáu chữ Di Đà không có niệm nào khác
Không mất công lao nhọc, sát na đến Tây Phương
Vô có nghĩa là không, biệt là khác, nghĩa là tâm mình luôn gắn chặt miên mật với sáu chữ Di Đà không có một chữ nào khác được chen vào. Chữ nào khác ở đây chỉ cho tạp niệm của chúng ta.
Thói quen của chúng ta là mới niệm câu trước, câu sau đã nghĩ tới chuyện khác rồi.
"Ngồi niệm Phật thì ai cũng niệm
Nhứt Tâm, không xao-xuyến ít người
Tâm như chong chóng giữa Trời
Phật thì một niệm, còn mười niệm ma
Các việc xấu nhớ ra trước nhứt
Kế tay chân buồn bực mỏi mê
Rồi ma buồn ngủ chạy về
Phật quên niệm đến, khói mê phủ vào
Không cần hỏi Ông nào cũng biết
Niệm thế bao giờ Phật chứng cho?
Khác nào nồi gạo mới vo
Bắt lên nhắc xuống bao giờ chín cơm?"
Cho nên Tổ dạy: Niệm Phật lục tự Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàng chỉ đáo Tây Phương. Chữ Đàn là khẩy móng tay, bất lao: không mắc công lao nhọc chỉ trong một sát na chúng ta đã đến Tây Phương rồi. Ngay trong câu này chúng ta cũng đã thấy được nghĩa của Tịnh Độ Hiện Tại.
Thầy nhớ tới câu chuyện của anh chàng Vương Đầu Ngốc vào triều đại nhà Thanh Trung Hoa (1616-1912), anh ta là con một nhà giàu có, nhưng đùng một cái vô thường đến, tán gia bại sản, cha mẹ chết, anh rơi vào thân phận mồ côi, anh đi ăn xin và gặp được ông Trần Đại Nhân là một Phật tử thuần thành, thấy tội mang về nuôi và cho làm đầy tớ, ban ngày chú lên núi đốn củi, tối về cho heo bò ăn, tối đến theo ông Trần Đại Nhân niệm Phật.
Mỗi tối Trần Đại Nhân ngồi niệm Phật, chú ngồi phía sau niệm theo, trong lúc ông Trần Đại Nhân nhất tâm niệm Phật, thỉnh thoảng ông quay lại thì thấy chàng Ngốc nằm ngáy khò khò, Ông lấy dùi mõ gõ lên đầu anh ta để thức dậy niệm Phật, rồi ông Trần niệm tiếp, niệm vài câu thì quay lại chàng Ngốc đều ngủ, dù tối nào cũng bị đánh, cho tới ba năm sau, một hôm chàng Vương Đầu Ngốc chắp tay kính cẩn thưa với ông Trần Đại Nhân: "Thưa Ngài, ngày mai Ngài không phải đánh con nữa, ngày mai con về trển rồi". Ông Trần Đại Nhân hỏi lại: "Con nói là con đi đâu?" , “Dạ thưa con về Tây Phương Cực Lạc với Đức Phật A Di Đà”. "Ụa, con đừng có đùa giỡn với ta, ta đây niệm Phật mười tám năm rồi, ta chưa thấy Phật Di Đà, trong khi con chỉ mới theo ba năm nay, mà bữa ngủ, bữa thức, thì thấy Phật Di Đà ở đâu con?" – "Thưa không, con thấy Phật Di Đà rồi, ngày mai con sẽ đi".
Trần đại Nhân nghe thấy như vậy thì giật mình nhưng không tin, qua ngày hôm sau chú vẫn lên núi đốn củi, đốn một bó củi xong rồi bó lại đàng hoàng dựng đó, bắt đầu đứng trên tảng đá đọc một câu để lại cho đời làm niềm tin:
Đi đứng niệm Phật thường,
Sáu chữ nhiếp tâm vương
Tam nghiệp hằng thanh tịnh
Đồng Phật vãng Tây Phương.
(Câu này hồi nãy Thầy có đọc trong nghi thức phần Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu:
Sáu khẩu liên tâm tịnh,
Vạn thủy bách hoa hương,
Tam nghiệp hằng thanh tịnh,
Đồng Phật vãng Tây Phương)
Đọc bài kệ xong, chú đứng chấp tay và vãng sanh luôn. Những người bạn cùng đi đốn củi chạy về báo cho ông Trần Đại Nhân lên đem chú về làm lễ hỏa táng và thu nhiều xá lợi.
Câu chuyện này được HT Thiền Tâm ghi ở trong Niệm Phật Học Yếu rất là tuyệt vời, cho nên quý Phật tử cố gắng niệm sáu chữ Di Đà để gieo nhân vãng sanh Tịnh Độ.
MC Huệ Sơn: xin mời chị Quảng Tịnh
Quảng Tịnh: Nam Mô A Di Đà Phật, con kính bạch Thầy, hôm nay qua câu hỏi của chị Diệu Đắc con xin Thầy giảng thêm cho chúng con về pháp hành. Chúng con vì công việc hằng ngày không có nhiều thời gian để ngồi niệm Phật, xin Thượng Tọa giảng cho chúng con làm sao để đem pháp hành và phát Bồ đề tâm vào trong đời sống hằng ngày?
TT GS Thích Nguyên Tạng: Cảm ơn Phật tử Quảng Tịnh đặt câu hỏi này. Thứ nhất là phát Bồ đề tâm, tin sâu giáo lý nhân quả, đọc kinh điển Đại thừa, đây là điều căn bản mà quý Phật tử phải nắm rõ. Gần đây có một số Phật tử theo trào lưu hộ niệm của HT Tịnh Không, mà rất nhiều vị Hòa Thượng ở trong nước cũng như ngoài nước phàn nàn về trào lưu này. Đi hộ niệm mà người chết rồi niệm cho tới tám tiếng đồng hồ, rồi sau đó mười hai tiếng, sau đó cái thi hài nó phải mềm ra thì cho rằng người được hộ niệm đó họ đã vãng sanh. Và điều này làm cho những Phật tử không đi theo ban hộ niệm đó, họ thắc mắc: tại sao người chết đó chưa bao giờ đi chùa, chưa bao giờ niệm Phật, thậm chí ăn ở ác nhơn ác đức, nhưng mà khi chết gia đình mời ban hộ niệm tới niệm Phật một hồi tay chân họ mềm ra, theo ban hộ niệm nói đây là dấu hiệu vãng sanh. Thầy là người đi đám tang từ xưa tới giờ không biết bao nhiêu đám, Thầy nói đó là cái điều cơ bản mà tại sao quý Phật tử mình không biết. Một người mà đã chết sau ba, bốn, năm tiếng là oxy hóa, thân thể này tự động nó cứng, rồi mềm ra, chuẩn bị bốc mùi nữa, thi hài sẽ xanh lên và sình ra, chứ không có dấu hiệu nào mà vãng sanh khi thi hài mềm ra.
Cho nên điều đầu tiên mà chúng ta phải thấy rằng, phát Bồ đề tâm là lấy từ bi và trí tuệ làm căn bản, khởi phát Bồ đề tâm là khởi phát lòng từ bi và trí tuệ. Người có trí tuệ, nhìn vào sẽ thấy đường đi, lối về của nhân quả nghiệp báo, chứ không phải nghe người nào nói là mình lao đầu vào mình tin, mình không có suy ngẫm, không biết gì hết. Điển hình là nói niệm Phật cho thân thể mềm ra là vãng sanh, cái đó là một loại "cuồng tín Tịnh độ" và cần phải chấm dứt.
Bồ Đề tâm là trí tuệ, là từ bi. Khởi phát Bồ đề tâm là quý vị mỗi ngày cần niệm:
"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thề nguyện học
Phật đạo vô thượng thề nguyện thành"
Đó là Bồ đề tâm.
Tại sao mình phát nguyện “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Bởi vì mình phát Bồ đề tâm để mình độ hết tất cả chúng sanh. Chúng sanh ở đây nên hiểu rằng không phải là chúng sanh ở ngoài xã hội mà là chúng sanh ở ngay trong cái thân ngũ uẩn này, chúng sanh ở đây là chỉ cho chúng sanh tham, chúng sanh sân, chúng sanh si, chúng sanh kiêu mạn, chúng sanh hồ nghi, chúng sanh ác kiến, chúng sanh biên kiến, chúng sanh tà kiến, chúng sanh kiến thủ và chúng sanh giới cấm thủ, mình phải độ tận hết tất cả chúng sanh này. Đó là phát Bồ đề tâm. Nếu tâm mình còn tham, tâm mình còn sân, tâm mình còn si là ngày đó còn phải tiếp tục tu tập để đoạn trừ.
Bồ đề tâm nói theo kinh niệm Phật Ba La Mật, bao hàm cả Trực tâm, thâm tâm và bồ đề tâm. Đệ tử Quảng Tịnh cố gắng mỗi ngày, đi làm về, vào bàn Phật đốt hương, đánh ba tiếng chuông và tụng bài Tứ Hoằng Thề Nguyện mà Thầy đã đọc ở trên. Tụng xong phải nhớ ý nghĩa mà áp dụng, hành trì và trước khi đi ngủ thì chấp trì danh hiệu niệm Lục Tự Di Đà: Nam Mô A Di Đà Phật.
Dịch nghĩa đen theo Tịnh Độ Hiện Tại, là:
Nam Mô nghĩa là quy mạng, quy y, trở về, cung kính.
A có nghĩa là vô
Di Đà có nghĩa là lượng.
Phật có nghĩa là giác, có nghĩa là tánh biết.
Nam Mô A Di Đà Phật
có nghĩa là trở về với cái tánh giác vô lượng của mình. Trở về với ánh sáng vô lượng của mình. Trở về với cái vô lượng thọ mạng của mình. Đó là niệm Phật A Di Đà, Quý vị nghe cho rõ chỗ này để mà thiết lập Tịnh Độ Hiện Tại. Khi mình niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, mình trở về với tánh giác của mình, trở về với tự tánh Di Đà của mình thì mình không tạo nghiệp. Khi mình niệm Phật thì miệng mình không nói những lời xằng bậy, ý mình không khởi lên tham, sân, si, mạn, nghi, và thân của mình không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Nghĩa là ngay lúc niệm Phật mình tận trừ tất cả những bất thiện nghiệp từ thân, khẩu và ý, và chúng ta đều biết rằng:
Ái bất trọng thì bất sanh Ta Bà
Niệm bất nhất thì bất sanh Tịnh Độ.
Nếu tâm luyến ái của chúng mình không nặng nề thì mình không bị dẫn dắt để đi đầu thai tái sanh vào cõi giới này, mình có mặt ở trong cuộc đời này là do cái tâm luyến ái, nghiệp luyến ái của mình quá nặng, mình sống một đời chưa đủ, mình phát tâm sống thêm nhiều đời nữa để tiếp tục hành hạ nhau cho khổ. Khổ để tiếp tục mai kia mốt nọ gặp lại nhau oán tắng hội khổ, đó là nghiệp của chúng sanh, thương nhau lắm thì cắn nhau đau. Một đời sống không đủ thì sống thêm một đời nữa. Cho nên mình niệm Phật A Di Đà để tận trừ tất cả những nghiệp chướng này. Nghiệp không còn thì không có gì để dẫn dắt mình đi tái sanh nữa, lúc đó mình đạt tới chỗ vô sanh mà vô sanh là bất tử. Vô sanh là nghĩa của A La Hán. Những vị mà chứng quả thứ tư là chứng quả A La Hán không còn tái sanh nữa, vì không còn nguyên liệu, không còn gì để dẫn dắt mình đi nữa thì mình đạt tới chỗ bất tử, đạt tới chỗ giải thoát, thong dong, tự tại. Đây là điểm cuối cùng của pháp tu Tịnh Độ, ngay trong câu niệm Phật mình đã chứng ngộ vô sanh rồi. Mong tất cả Phật tử đạt đến chỗ này để không còn đi đầu thai, không còn tái sanh để mà khổ đau cùng cực nữa. Nam Mô A Di Đà Phật.
MC Huệ Sơn: Nam Mô A Di Đà Phật, con kính tri ân Thầy, xin mời cô Diệu Như đặt câu hỏi.
Cô Diệu Như: Nam Mô A Di Đà Phật, con kính chào Thầy, thưa Thầy vừa rồi Thầy có nói Dự lưu là quả vị đầu tiên dành cho phật tử tu tập, vậy Dự lưu có phải là Hạ phẩm hạ sanh của cõi Cực Lạc hay không? và Phật tử chúng con thì phải tu như thế nào để vào cõi Dự lưu ạ? Nam Mô A Di Đà Phật.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Cám ơn chị Diệu Như, chị cũng là nhà văn Trần Nhật Hưng đó. Chào chị Diệu Như và bác Đức Trí ở Thụy Sỹ, hai Phật tử rất tuyệt vời, thành viên nồng cốt của báo Viên Giác và gần đây là Zoom truyền bá Phật Pháp của Âu Châu. Bác Đức Trí thì bệnh già yếu mà không có buổi pháp thoại nào bỏ hết, rất là tinh tấn, tuyệt vời.
Thầy chưa thấy một tài liệu nào nói quả Dự lưu là hạ phẩm hạ sanh. Hồi nãy Thầy nhắc đến Tứ Quả Thanh Văn đối chiếu với chỗ vãng sanh, cái đó là tư tưởng của Thầy thôi, Thầy chưa có nghe một vị Hòa Thượng hay một bản sớ giải nói về vấn đề này, mà Thầy nghĩ Tứ Quả Thanh Văn là cái xương sống, là cái trụ cột chính ở trong một ngôi nhà và từ đó chư Tổ mới dạy ra thêm cửu phẩm liên hoa hay là Đức Phật nói ở trong Kinh Vô Lượng Thọ. Trong kinh A Di Đà nói về Cửu phẩm liên hoa và không có một sự đối chiếu hay liên hệ giữa Cửu Phẩm Liên Hoa và Tứ Quả Thanh Văn.
Chúng ta biết rằng Tứ Quả Thanh Văn là tầng bậc tu chứng từ phàm phu lên tới quả thánh, có nghĩa là giảng rõ về quả Dự Lưu, còn gọi là thất lai, Tu Đà Hoàn. Một hành giả muốn chứng quả Dự lưu phải đoạn trừ ba kiết sử, thứ nhất là thân kiến (chấp nắm vào thân ô uế này là của mình), thứ hai là giới cấm thủ (những pháp hành, những pháp tu đưa tới sai lệch, đưa tới khổ đau, mà mình vẫn chấp vào đó để hành trì) thứ ba là hoài nghi (không còn hoài nghi về Phật, pháp, Tăng, về Phật giới) sẽ chứng được quả Dự lưu.
MC Huệ Sơn: Mời chị Thúy Nga đặt câu hỏi
Chị Thúy Nga: A Di Đà Phật, con cung kính đảnh lễ Thầy, trước tiên là tri ân Thầy đã cho con bài pháp rất là hay, lợi lạc cho chúng con trên đường tu học về pháp môn Tịnh Độ. Bạch Thầy, con có câu hỏi tiếp nối của anh Huệ Sơn, anh ấy có hỏi, tu Tịnh Đô là cứu cánh hay phương tiện? Con thấy hiện giờ có nhiều Phật tử phát tâm Bồ đề nhưng khi cầu về Tịnh Độ lại sợ tái sanh trở lại, thì theo Thầy chứng quả Thánh thì đa số cũng nhập Niết Bàn và ẩn đi. Vậy thì cái pháp môn Tịnh Độ và cái tư tưởng Đại Thừa có bị mai một không Thầy? Ví dụ như phát tâm Bồ đề xong rồi, cái tư tưởng của Phật tử nói chung là muốn chứng quả ở tại Tịnh Độ, sau đó ở đó luôn và không tính con đường trở lại với chúng sanh như phần hồi hướng môn mà Tổ đã dạy, vậy thì có mâu thuẫn hay là có một cái hiểu không đúng?
TT GS Thích Nguyên Tạng: Cảm ơn chị Thúy Nga, Huệ Tâm Hiền. Chị Thúy Nga đặt câu rất là hay, chị Thúy Nga là đệ tử thọ Bồ Tát giới cho nên lo là không có ai ở lại cõi này để mà cứu khổ độ sanh. Các vị thấy điện thư phân ưu khi quý Hòa Thượng viên tịch. Thí dụ như Lễ Tang Ôn Thắng Hoan vừa rồi: "Cầu nguyện Đại Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan Cao Đăng Phật quốc, hồi nhập Ta Bà, cứu khổ độ sanh”. Chị Thúy Nga mà lo xa như vậy thì: Cầu nguyện cho quý Phật tử theo pháp môn Tịnh Độ vãng sanh Cực Lạc rồi tái hiện đàm hoa, tự lợi, lợi tha, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
Tất cả các điện thư phân ưu Quý Hòa Thượng không phải tới đó mà hàng đệ tử còn kéo thêm một câu thứ hai nữa nó mới giá trị, tức là: Cầu nguyện Trưởng Lão cao đăng Phật Quốc, tái hiện đàm hoa. (đàm hoa tuy rụng mà vẫn còn dư hương). Ý nói, các Ngài tuy đã viên tịch rồi, nhưng hương thơm giới đức, lời dạy, những hành trạng mà quý Ngài trong đời sống này vẫn còn lưu lại thơm mãi tới ngàn sau. Và cầu nguyện quý Ngài về tới Tây Phương Cực Lạc rồi thì xin quý Ngài làm ơn, làm phước tái sanh trở lại thế giới Ta Bà này để tiếp tục công cuộc giáo hóa độ sanh. Bởi vì thế giới Ta Bà này còn quá nhiều chúng sanh đang đau khổ và đang chờ đợi quý Ngài về. Nên chị Thúy Nga không có gì phải lo lắng cả, quý Ngài phát Bồ đề tâm, cứu khổ độ sinh thì quý Ngài có vãng sanh về Cực Lạc đi chăng nữa, quý Ngài sẽ trở lại cõi Ta Bà này với bản nguyện độ sanh.
Trở lại Ta Bà này có hai dạng:
Thứ nhất: Mình rơi vào thế giới Ta Bà này là vì nghiệp báo dẫn dắt mình đi.
Thứ hai: Mình xuống cõi Ta Bà này vì hạnh nguyện cứu khổ độ sanh.
MC Huệ Sơn: Trước khi chấm dứt buổi học hôm nay chúng ta sẽ được anh Minh Đạo từ Phần Lan chia sẻ cho một bài thơ. Xin mời anh Minh Đạo.
Phật tử Minh Đạo: Con kính lễ TT Giảng Sư, kính chào Thầy Chủ nhiệm và quý Phật tử, con làm bài thơ này cũng dùng hết năng lượng, bạch Thầy, nhưng mà con cũng có tư lương sẵn nên con làm cái ý cũng nhanh, con kính tri ân Thầy giảng bài pháp hôm nay, con xin dâng tặng bài thơ này đến Thầy và đại chúng:
Nhập tịch quốc dân Cực Lạc Bang
Ngũ môn Tịnh Độ học nghiêm trang
Văn tư tu, tứ bất hoại tín
Nguyện hạnh tăng huy phát huệ quang
Phước đức ứng thành là hộ chiếu
Giới quy miên mật gói hành trang
Diệt trừ kiết sử mười phiền não
Thánh thiện thăng hoa ý thịnh an
Tâm tịnh thanh lương giữa Đạo đời
Hiện tiền Tịnh Độ chẳng xa xôi
Biết mình tạo tác từng giây phút
Thấy cảnh đang là diễn biến trôi
Biết quý nhân sinh dần hoại diệt
Xả buông cái mất chuyển luân hồi
Tai nghe mắt thấy duyên vi diệu
Tùy hỷ trao nhau những nụ cười
Đời đạo song hành cùng khổ lạc
An nhiên thọ nghiệp quả đương thời
Huân tu Phật hóa làm nhiên liệu
Thắp sáng tuệ căn trọn kiếp người
Cực Lạc tham cầu chi cực khổ
Tám đường thanh tịnh bước an vui
Bước chân hạnh phúc là chân lý
Định vị Tây Phương sẵn đấy rồi.
Quốc độ mỗi thời riêng phước báo
Tu trong hoàn cảnh chính mình thôi
Phút giây giải thoát là cầu nối ...
Cực Lạc Tây Phương với hiện đời.
(Tampere, Phần Lan 8.8.2024, Minh Đạo)
MC Huệ Sơn: Con thấy bên chat có một câu hỏi, Thầy có thể trả lời ngắn gọn cho câu hỏi này, con được phép đọc lên hay Thầy tự đọc?
TT Giảng Sư: Anh đọc dùm cho Thầy.
MCHS: Thưa Thầy cho con hỏi, trước kia mẹ con in rất nhiều bản photocopy của kinh cho con, nay con có sách kinh rồi con muốn sắp xếp lại tủ sách cho gọn gàng mà con biết kinh thì không vất được, chắc chắn con không dùng đến bản photocopy này nữa, giờ con chưa biết phải làm gì? Con sợ mắc tội, xin Thầy chỉ dạy cho con ạ. Đó là câu hỏi của cô Diệu Nguyên.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Phật tử Diệu Nguyên có thể đem lên cúng dường cho chùa gần nhất để trong thư viện, để gieo duyên với quý Phật tử nào mà cần đọc, đó là cách giải quyết dễ nhất mà phật tử ở Úc này cũng hay làm.
MC Huệ Sơn: Cho con được kết thúc buổi học hôm nay, thay mặt cho đạo tràng chúng con kính cảm niệm công đức của Thượng Tọa đã về đạo tràng hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng con hiểu rõ hơn về Tịnh Độ Cực Lạc và Tịnh Độ hiện tại. Qua buổi pháp đàm hôm nay thì chúng con hiểu được rằng tông chỉ của pháp môn Tịnh Độ căn cứ trên Kinh A Di Đà thành lập, phải phát Bồ đề tâm, sau phần giáo lý nhân quả với ba yếu tố căn bản là tín, nguyện và hạnh. Tín là phải tin sâu, tin vào nội lực của mình, nghĩa là tự lực. Ngoại tín là tin vào tha lực, phải nguyện thiết tha thành khẩn và hành thì phải niệm chuyên cần, phải niệm bằng tất cả thân, khẩu, ý thì mới cảm được cùng với tâm của Phật. Có thể nói một cách đơn giản là Tịnh Độ Cực Lạc và Tịnh Độ Hiện tại đều là phương pháp của Phật giúp cho chúng sanh chấm dứt khổ đau, có được an vui hạnh phúc và cái an vui hạnh phúc này khác với an vui hạnh phúc của thế gian vì nó không có mầm mống đau khổ trong này. Một lần nữa chúng con kính tri ân Thượng Tọa đã đến với Đạo Tràng, tận tâm chỉ dạy và giảng giải cho chúng con. Chúng con kính chúc Thượng Tọa pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ, đạo hạnh viên mãn để dìu dắt chúng con hiểu thấu đáo hơn về Phật Pháp, chúng con cũng kính xin tri ân Chư Tôn Đức đã vào đạo tràng để sách tấn chúng con trên bước đường tu học. Kính cảm ơn quý bác, quý anh chị em, đạo hữu đã đồng hành với ban truyền bá trong những buổi tu học như thế này, cùng nhau tu học để gặt hái nhiều lợi lạc cho bản thân. Để kết thúc buổi học, chúng con kính thỉnh Thượng Tọa hướng dẫn đạo tràng chúng con hồi hướng công đức để cho buổi học hôm nay thập phần viên mãn. Nam Mô A Di Đà Phật.
TT GS Thích Nguyên Tạng: Cảm ơn MC Huệ Sơn ở bên Hòa Lan. Cảm ơn Phật tử Diệu Tịnh làm kỹ thuật, và cảm ơn Phật tử Minh Đạo Phương Biên, nhà thơ đã làm bài thơ đúc kết rất là tuyệt vời. Đệ tử gửi qua cho Thầy Online trên trang nhà Quảng Đức như thường lệ, cảm ơn Đại chúng vào nghe giảng khuya hôm nay tại Úc Châu và tối hôm nay tại Âu Châu, chúc Đại chúng một đêm an lành, và một ngày bình an trong chánh pháp. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính mời Đại chúng hồi hướng công đức.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
MC Huệ Sơn: Kính chúc Chư Tôn Đức cùng Chư Tôn Đức thân tâm thường an lạc, một đêm an lành, và hẹn lại quý vị vào thứ Năm tuần sau. Vào ngày 25/8/2024 sẽ có một buổi pháp thoại với đề tài là Tịnh Độ trong kinh điển Nikaya do Sư cô Thích Thông Niệm giảng dạy và MC sẽ là cô Ngọc Sáng. Kính mời đại chúng vào tham dự.
Con Diệu Danh sau khi phiên tả xong bài giảng của TT Nguyên Tạng, con xin cảm tác bài này kính dâng Thầy:
Nhờ Thầy giảng dạy hôm nay
Pháp môn Tịnh Độ hiển bày trong con
Tu sao tín, nguyện, hạnh tròn,
Nương câu niệm Phật không mòn trong tâm
Lý, sự phải thật viên dung
Nhân quả phải hiểu mà dùng không sai
Niệm Phật cho được ngày mai
Vãng sanh Tịnh Độ liên đài cho lên
Phật tử Diệu Danh
🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
Kính mời xem bài liên quan:
🍁Mười bước đến cõi Tây Phương (Huệ Hương)
🍁Tịnh Độ Tây Phương và Tịnh Độ Hiện Tại (thơ, nhiều tác giả)